Chim Việt Cành Nam          [  Trở Về   ]

Khoa Cử Việt Nam - THI HỘI THI ĐÌNH
-
PHẦN II - THI ĐÌNH

CHƯƠNG NĂM

ÐỀ MỤC - VĂN BÀI (2)
-
Nguyễn Thị Chân Quỳnh


 
KHOA NHÂM TUẤT (1442)
VĂN BÀI CỦA TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC *
Sách vấn :

Trẫm nghĩ :

Trị nước tất lấy việc được người làm gốc. Vào thời Ðường, Ngu (1), nhân tài nhiều nhưng bề tôi được vua dùng ngoài Tứ nhạc (2), Cửu quan (3), Thập nhị mục (4), không thấy ai khác. Sao nhân tài khó được vậy ? Ðến Ðế Nghiêu sáng suốt biết người mà trong triều còn có Tứ hung (5), sao tiểu nhân khó biết vậy ? Cái hại của nạn hồng thủy (6) nước ôm núi ngập gò, dân ngày ấy chịu hại không ít. Công việc trị thủy của Cổn kéo dài chín năm tất làm dân tổn hại là như vậy, sao không trừ bỏ bọn tiểu nhân sớm hơn ?

Ðời Chu được khen là hiền sĩ đông đúc, Văn Vương (7) nhờ đó mà yên được nước, đến đời Vũ Vương (8) chỉ còn nhắc đến thập loạn, như vậy nói nhân tài khó được há chẳng đúng sao ? Bọn Quản, Sái (9) đưa lời dèm pha khiến Chu Công lang bạt (10), Vương thất tưởng chừng nguy ngập, sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời nào không có bọn chúng ?

Ðức Thái Tổ Cao Hoàng Ðế ta (11) giành được thiên hạ, nhiều lần hạ chiếu cầu hiền mà không một người ứng tuyển, còn bọn Hãn, Sảo (12) ngầm chứa gian tâm. Trẫm từ khi lên ngôi đến nay gắng lòng tìm cách trị nước thế mà hiệu quả của việc được người vẫn mênh mang, mờ mịt, bọn Ngân, Sát (13) thì gian ác chứa chất, sao quân tử khó được, tiểu nhân khó biết thế ?

Chư Tử ! Các ngươi hãy dốc hết tấm lòng của mình để ứng đối, Trẫm sẽ đích thân xem xét.

VĂN BÀI CỦA TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC :

Thần xin đối rằng :

Thần nghe nói bậc thánh nhân trị nước tuy có sự khác biệt xưa nay, nhưng tâm của thánh nhân thì không hề phân chia kim cổ. Bởi vì tiến dụng quân tử, đẩy lùi tiểu nhân là bản tâm của việc thánh nhân trị nước. Nếu như quân tử lùi mà tiểu nhân tiến thì đâu phải là sự mong muốn của bậc thánh nhân ?

Xem như đời Ðường, Ngu đãi hậu với người đạo đức, tin cẩn người có nhân mà cự tuyệt bọn gian tham, trao chức vụ chỉ cho hiền tài, giao công việc chỉ theo năng lực, cũng như ý cầu hiền của triều ta, đều là dùng quân tử, bỏ tiểu nhân vậy.

Hoàng thượng kế thừa nghiệp lớn, giữ nước an dân, sớm tối cầu hiền để giúp nên nghiệp lớn, rồi lại đặt khoa thi chọn kẻ sĩ, mở rộng đường cho hiền tài, tiến cử bọn thần nơi sân rồng, ra sách vấn để hỏi về sự cốt yếu của đạo trị nước và về quân tử, tiểu nhân.

Xét mình ngu muội đâu dám cùng ngồi trên bàn luận, nhưng đã thẹn vâng theo minh chiếu thì dám đâu không một lòng trinh bạch tâu bầy để đáp lại mệnh lớn của thiên tử ?

Thần cúi đọc lời sách vấn của Thánh thượng hỏi :

Trẫm nghĩ : Trị nước tất lấy việc được người làm gốc. Vào đời Ðường, Ngu nhân tài nhiều nhưng bề tôi được vua dùng ngoài Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục không hề thấy ai khác, sao nhân tài khó được vậy ? Ðến Ðế Nghiêu sáng suốt biết người mà trong triều còn lũ Tứ hung, sao tiểu nhân khó biết vậy ? Cái hại của nạn hồng thủy nước ôm núi ngập gò, dân ngày ấy chịu hại không ít, công cuộc trị thủy của Cổn kéo dài đến chín năm tất làm dân tổn hại là như vậy, sao không trừ bỏ bọn tiểu nhân sớm hơn ?

Thần cho rằng : Trị nước lấy được người làm gốc, dùng người lấy tin dùng làm đầu. Ðời Ðường Ngu nhân tài nhiều nhưng các quan được dùng chỉ ghi là : "hỏi ở Tứ nhạc, nghe ở Thập nhị mục". Tứ nhạc là bốn người coi chư hầu bốn phương, Thập nhị mục là đầu mục của chín châu (14) cùng với Vũ làm Tư không, Khí làm Hậu tắc, Tiết làm Tư đồ, Cao Dao làm Sĩ sư, Thùy làm Cộng công, (Bá) Ích làm Trảm ngu, Bá, Di làm Trật tông, (Hậu) Quỳ làm Ðiển nhạc, Long làm Nạp ngôn, các chức này gọi là Cửu quan, ngoài những quan này không còn ai nữa.

Kinh Thư viết : "Ðường, Ngu kiến dựng quan chức chỉ có một trăm", lại ghi "Người có đức đều được sử dụng, trăm quan khuôn phép theo nhau, trăm việc kịp thời ; trên miếu đường vua tôi bàn bạc, dưới thềm điện dân chúng hát ca. Người người đều có đức hạnh của bậc sĩ quân tử, nhà nhà đều có phong tục đáng nêu gương. Cho đến người hiền tài nơi dân chúng của muôn nước cũng là bề tôi của bậc đế vương", như vậy đâu phải là nhân tài khó được ?

Lại như Ðế Nghiêu đầy đủ đức văn võ thánh thần, có sáng suốt biết người biết việc nhưng trong đám bề tôi triều nội sao vẫn còn có lũ Tứ hung ? Bởi đạo tiểu nhân dễ tiến mà khó thoái, dễ dùng mà khó bỏ, đại gian giống tựa bậc trung, đại nịnh giống tựa bậc tín. Chúng kết bè đảng đến mức lôi kéo dẫn giắt lẫn nhau.

Nhưng đâu phải bậc đế vương sáng suốt có việc mà không biết. Xét ở câu "Dùng lời nói khéo để trái mệnh vua, giả cách kính nhường để gây tội ác" và câu "H(o)i ôi, bỏ mệnh của Tiên vương để gây họa loạn cho tộc họ" thì cũng có thể thấy được điều đó, như thế đâu phải là tiểu nhân khó biết mà chỉ là chưa trừ bỏ sớm thôi !

Nhưng đời Ðường, Ngu dùng phép Tam khảo, khảo xét đầy đủ công trạng cho nên vua Nghiêu phải dùng Cổn đến chín năm, gắng dùng không thành, sau đó mới bỏ, há phải bỏ hắn sớm đâu ? Sau đó Thuấn lại theo mệnh Nghiêu trừ khử Cổn khiến cho thiên hạ thán phục, chứ đâu phải bọn tiểu nhân khó trừ ? Như vậy thời Ðường, Ngu tuy có bọn tiểu nhân nhưng bọn chúng sao có thể làm hại cuộc hưng trị của hai Ðế Nghiêu, Thuấn ?

Thần cúi đọc chế sách hỏi :

Ðời nhà Chu được Kinh Thư ca ngợi là kẻ sĩ đông đúc, Văn Vương nhờ đó mà được yên nước. Ðến đời Vũ Vương chỉ còn nhắc đến Thập loạn, như vậy nói nhân tài khó được há chẳng đúng sao ? Quản, Sái, đưa lời dèm pha khiến Chu Công lang bạt, Vương thất tưởng chừng nguy ngập, sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời nào không có chúng !

Thần nghe rằng : Văn Vương nhà Chu thấu hiểu đạo "tam hữu trạch tâm" (15) nhìn rõ đức lớn của đạo Tam hữu nên hiền tài đông đúc, đó là điều tốt đẹp của nhà Chu. Ðến Vũ Vương chỉ có mười bề tôi dẹp loạn là Chu Công Ðán, Thiệu Công Thích (16), Thái Công Vọng, Tất Công, Vinh Công, Thái Ðiển, Hoằng Yêu, Tán Nghi Sinh, Nam Cung Quát và một người là Ấp Khương (vợ Vũ Vương), cho nên Khổng Tử nói "nhân tài khó" chẳng thế sao ? Từ đời Ðường, Ngu đến lúc ấy là có nhiều hiền tài nhưng mười người ấy có một là đàn bà rồi, chỉ còn lại chín người thôi.

Xét rõ việc biết dùng người của Văn Vương trong bài thơ "Phác Vực", niềm vui bồi dư(o)ng nhân tài trong bài thơ "Tinh Nga", cùng lời ca ngợi "Ba nghìn kẻ sĩ chỉ cùng một lòng" thì nhân tài ở đời Chu không phải là không nhiều, nói "nhân tài khó" đó chỉ là nói nhân tài không bằng đời Ðường, Ngu mà thôi, chứ đâu phải ngoài chín người không còn người nào khác !

Ôi ! Nhân tài đông đúc như thế nhưng đương buổi đầu Thành Vương (17) mới lên ngôi, Quản, Sái lại là người chí thân của Vương thất, uy hiếp Vũ Canh để phản lại nhà Chu, phao tin để mê hoặc người nghe làm cho Thành Vương sinh lòng ngờ vực Chu Công khiến cho ông phải lang bạt về Ðông Ðô bởi vì lúc ấy Vũ Vương mới băng hà mà Thành Vương còn thơ ấu, trọng trách thiên hạ cậy vào Chu Công. Ông tuy bị dèm pha, chê trách mà chịu an phận nghỉ ngơi. Vương đọc thơ của ông mà chưa tỉnh ngộ, sự nghiệp hai vua Văn, Vũ nguy như ngàn cân treo sợi tóc. Nếu như không có cơn sấm sét của Trời nổi để gió thổi cuốn tội ác của bọn Tam giám (18), để trương đức của Chu Công thì ai có thể cảnh tỉnh được Thành Vương và phò giúp nhà vua ?

Tuy nói "Tiểu nhân nham hiểm không thời nào không có", lại có câu "Kẻ có tội chịu tội" mà vì vậy tội ác của bọn Quản, Sái không thể che giấu nổi, như vậy Chu Công ứng xử nguy biến rất trúng mà bọn tiểu nhân cuối cùng cũng không thể thắng quân tử được !

Thần cúi đọc sách vấn của Thánh thượng hỏi :

Ðức Thái Tổ Cao Hoàng Ðế ta giành được thiên hạ, xuống chiếu cầu hiền mà không một người ứng tuyển, còn bọn Hãn, Sảo ngầm chứa gian tâm. Trẫm từ khi lên ngôi đến nay gắng lòng tìm cách trị nước, thế mà hiệu quả của việc được người vẫn mênh mang, mờ mịt, còn bọn Ngân, Sát thì ôm gian chứa ác, sao quân tử khó được, tiểu nhân khó biết thế ?

Thần thiết nghĩ : Ðức Thái Tổ Cao Hoàng Ðế thuận theo mệnh Trời, thừa tiếp vận hội, khởi dựng cơ đồ sáng đẹp bởi Trời cho tư chất thần vũ anh minh là bậc chúa dựng ngôi ban phúc, hằng nhờ sự gian nan khi sáng nghiệp mà gìn giữ cơ nghiệp không dễ. Ðức vua đã nhiều lần hạ chiếu cầu hiền, những mong mỏi được người trị nước, rốt cuộc chưa có một ai ứng tuyển, cớ bởi làm sao ?

"Một ấp mười nhà tất có người trung tín, một mảnh vườn mười bước tất có cỏ thơm", huống như sự rộng lớn của cả nước, chúng nhân hàng ức triệu mà không một người tài ứng tuyển là tại sao ? Thần đắn đo nghĩ ngợi : Tâm của Thái Tổ Cao Hoàng Ðế là sáng suốt, biết người của Ðế Nghiêu, khéo léo chọn người của Ðế Thuấn là ý dựng lập người hiền bằng mọi cách của Thành Thang là không bỏ sót người gần, không quên người xa của Vũ Vương vậy ! Bởi nhà vua lo hiền tài ẩn dật ở nơi hang cùng cho nên nhiều phen hạ chiếu cầu hiền, bởi lo hiền tài ẩn ở nơi tăng phòng, đạo quán cho nên đặt khoa thi để tuyển chọn, thế mà chưa có hiệu quả là vì sao ?

Bởi vì tự mình chọn người là đạo của quân vương, mà vì nước tiến cử hiền tài lại là trách nhiệm của đại thần. Bọn Hãn, Sảo thì ngầm nuôi lòng gian, đố kỵ người hiền, ghen ghét người tài, cất nhắc bè đảng, bọn chúng đã kém cỏi thì sao có thể tiến cử được người tài ? Cho nên Thái Tổ Cao Hoàng Ðế tuy có tâm cầu hiền mà cản trở ở bọn Hãn, Sảo che lấp mất hiền tài nguyên là vậy. Cho nên cổ nhân đã nói :"Tiến cử người hiền được hưởng bậc cao, che lấp hiền tài phải bị tội nặng" vì vậy bọn Hãn, Sảo không thoát ra khỏi đòn trời giáng của Thái Tổ Cao Hoàng Ðế. Bọn chúng cũng là lũ Tứ hung đời Ngu, lũ Tam giám đời Chu. Tuy có bọn tiểu nhân như chúng cũng không thể làm hại được.

Bệ hạ nối chức vua cha, xếp đặt công việc, giữ vững cơ đồ, công bằng lựa chọn, quanh mình cũng đều là bậc cựu thần tì hổ oai phong, đều là bậc nghĩa sĩ của Thái Tổ. Ngay từ buổi đầu thực hành việc nước Thánh thượng đã hạ minh chiếu để lập khoa thi, muốn được nhân tài để thành thịnh trị, sao hiệu quả được người mênh mang mờ mịt, khẩn cầu mà chưa xứng với sự tuyển chọn, há chẳng phải bọn Ngân, Sát ôm gian chứa ác gây nên sao ? Thần cho rằng bọn Ngân, Sát đã gián cách nhà vua, ngăn trở quan trên, che lấp người hiền, hãm hại người tài. Chúng lấy bọn phụ theo mình làm hiền lương, lấy bọn sảo mép làm tài nghệ mua quan chức, bán án tội, hối lộ ngang nhiên, chúng đầy Cầm Hổ (19) ra phương xa, bãi chức quan của Thiên Tước (20), những việc như vậy đâu phải vì nước tiến cử hiền, lấy người phò vua ? Thế quân tử do đó khó tìm, tiểu nhân do đó khó biết nhưng "tiểu nhân khó biết" có thực là "khó biết" không ? Chẳng phải lũ Ngân, Sát đã không thoát được lưới của Bệ hạ, như các vua nhà Ngu, nhà Chu, như Thái Tổ Cao Hoàng Ðế, tấm lòng yêu thiện ghét ác tất cả thỏa đáng mà thiên hạ đều thán phục.

Ôi ! Quân tử và tiểu nhân luôn luôn tương phản. Ðạo quân tử lớn mạnh thì đạo tiểu nhân tiêu hao, đạo quân tử tiêu hao thì đạo tiểu nhân mạnh lên. Hai đạo đó như âm với dương, như ngày với đêm, không thể cùng vận hành, như băng trong với tro bụi, như hương thơm với uế khí, không thể chứa chung một vật. Cho nên người ở ngôi cao trong khi dùng người phải trung hòa, phải chuyên nhất, phải thử thách, phải thận trọng, như vậy mới có thể được.

Thần cúi đọc sách vấn của Thánh thượng ra lệnh rằng :

"Chư Tử ! Các ngươi hãy dốc hết tấm lòng của mình để ứng đối, Trẫm sẽ đích thân xem xét".

Thần tài năng không đủ để bác cổ thông kim, tuy dù ngày thường ngu muội vẫn muốn bề trên sáng soi, huống như hôm nay được phép dùng lời, sao dám không dốc hết những điều tai nghe mắt thấy để dâng hiến ?

Thần từng nghe : "Trị nước lấy được người làm gốc, dùng người, sửa mình làm đầu", sách Truyện (21) nói rằng "Trị nước ở người, giữ người do mình", lại nói "Nghiêu, Thuấn trí sáng mà không biết hết mọi điều, hãy làm gấp việc cần làm trước ; Nghiêu, Thuấn nhân từ cũng không thể yêu hết mọi người, hãy gần gũi người hiền". Bệ hạ muốn theo phép của Nghiêu, Thuấn thì Nghiêu, Thuấn đó. Bệ hạ muốn theo phép của Thái Tổ tất Thái Tổ đó. Bệ hạ muốn theo phép của Nghiêu, Thuấn thì phải lo về đạo an dân, biết người, vì sao phải làm trước ? Ðạo dùng hiền, trừ bỏ gian vì sao phải dùng gấp ? Làm như vậy thì quân tử tiến mà tiểu nhân lùi. Bệ hạ muốn theo phép của Thái Tổ thì hãy tâm niệm quy mô dựng nghiệp, truyền ngôi, phép tắc cầu hiền, dùng người, tất quân tử tiến mà tiểu nhân thoáì vậy. Bệ hạ muốn quân tử tiến mà tiểu nhân thoái thì không gì bằng gần gũi bề tôi cương trực, dùng kẻ sĩ chính trực để dẫn vua đi vào đường đúng, đặt vua ở chỗ không sai. Cho nên sách Mạnh Tử nói :"Người ta không đủ để mình theo, việc chính sự không đủ để mình nghe. Chỉ có bậc đại nhân mới có thể sửa sai trái trong lòng vua. Vua có nhân, không ai không nhân ; vua có nghĩa, không ai không nghĩa ; vua chính, không ai không chính. Trước nhất vua chính thì nước mới định được".

Thần nguyện xin bệ hạ đích thân tiến cử hiền thần, xếp đặt tả hữu, như vua Thuấn tiến cử Cao Dao (22) mà kẻ bất nhân tránh xa, như vua Thành Thang tiến cử Y Doãn (23), trăm quan đều thuần đức. Vua Cao Tông có Phó Duyệt (24) mà mưu trí mở mang, Thành Vương được Chu Công mà trông cậy vào sự phò tá của ông. Ðược như vậy thì nơi dân dã đã không sót hiền tài, nơi nơi yên ổn, nhà vua được hưởng lòng Trời mà muôn dân sự sống sinh sôi. Cùng với sớm tối tiếp nhận khuyên can để giúp đức của dân, kinh doanh bốn phương để giữ yên đất nước, như thế thì lo gì quân tử không tiến mà tiểu nhân không lùi ?

Tuy nhiên "trí, nhân, dũng" là ba đức lớn lao trong thiên hạ, không có "trí" thì không thể biết người, không có "nhân" thì không thể chọn người, không có "dũng" thì không thể dùng người. Lấy "trí" biết người thì có thể biết rõ ràng và biết được thực tài của họ ; lấy "nhân" chọn người thì không bỏ người tài ngay trong lúc họ khốn cùng, ắt chọn được lòng thành của họ ; lấy "dũng" mà dùng người thì tin dùng mà chẳng nghi ngờ, ắt thấy được chuyên tâm của họ. Nếu có đủ ba điều "trí, nhân, dũng " thì nghĩa lý của việc "dùng người, bỏ người" sáng tỏ và lòng yêu ghét chính trung. Câu "Chỉ có người nhân mới có thể yêu người, ghét người được" đúng là như vậy.

Chuyện bọn Ngân, Sát đã qua rồi, nay các quan trong triều, sĩ phu ngoài dân dã thực có thể chọn kỹ được, dùng chuyên được... tin chắc được ; mở rộng phép bình công ban thưởng, ba kỳ khảo xét khen chê, thăng giáng rõ ràng. Người nào hiền tài, kẻ nào xấu kém, người nào thanh liêm, năng lực mẫn cán, kẻ nào tham lam, ngu dốt, cẩu thả, trây lười, kẻ nào ngồi như xác chết không còn làm gì để mà ăn bám, kẻ nào đã bất đức, bất tài lại ôm gian, chứa ác, tất cả phải thấy rõ ràng. Như vậy thì trăm quan tề tựu quanh vua đều có phong độ của kẻ sĩ quân tử, thế thì sao bọn tiểu nhân còn đáng lo nữa ?

Thần luống thẹn được gội ân Thánh thượng dạt dào, đã mấy năm rồi ân nghĩa thấm sâu, gắng theo kẻ sĩ vâng đợi trước sân rồng. Thần đâu dám đua tài hơn kém, đau đáu tấm lòng khuyển mã, sợ hãi cầu xin trước uy thần, những mong Bệ hạ thứ cho tội văn chương chữ nghĩa thô cuồng.

Thần kính cẩn dâng lời đối sách.

 Nguyễn văn Thinh dịch, Văn Thi Ðình

CHÚ GIẢI
[của GS Nguyễn Khuê (Chủ nhiệm bộ môn Hán Nôm khoa Ngữ văn, Ðại Học KHXH và NV, TPHCM) và của Nguyễn Thị Chân Quỳnh]

* Nguyễn Trực (1417-74) người xã Bối-khê, huyện Thanh-oai, 26 tuổi đỗ Trạng nguyên, làm quan đến chức Thủ Trung thư lệnh, Tri tam quán sự, Ðại liêu ban, đặc thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ kiêm Tế tửu Quốc tử giám, từng đi sứ nhà Minh.

Tác phẩm : Bối Khê Thi Tập nay chỉ còn sáu bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt Thi Lục.

Thơ văn của Lê Thánh Tông phần nhiều đưa cho ông xem trước để bình luận.

1- Ðường, Ngu : vua Nghiêu (2356-2255) họ Ðào Ðường, vua Thuấn (2255-2205) họ Hữu Ngu, dùng họ đặt tên triều đình mình. Cả hai được coi là những vua hiền, thời đại hoàng kim, thiên hạ thái bình,

dùng đức cai trị, pháp chế tốt lành.

2- Tứ Nhạc là bốn chúa chư hầu đứng đầu bốn phương, sau đổi gọi là Phương Bá. Văn Vương nhà Chu là Tây Bá dưới thời vua Trụ nhà Thương.

3- Cửu quan (đời vua Thuấn) : nông (Tắc), sản vật tự nhiên (Ngu), công (Cung công), hình pháp (Sĩ), giáo dục (Tư đồ), lễ (Trật tông) và nhạc (Ðiển), thiên thời địa lợi (Tư không), tấu đối (Nạp ngôn). Thượng Thư, 29.

4- Thập nhị mục là 12 kẻ chăn dân, thuộc quyền Tứ Nhạc, trên các chư hầu nhỏ. Vua Thuấn chia nước làm 12 châu, chư hầu là kẻ chăn dân.

5- Tứ hung là bốn kẻ hung ác đời Nghiêu, Thuấn : Cung Công, Hoan Ðâu, Tam Miêu, Cổn, bị vua Thuấn trừng phạt. Văn Thi Ðình, 112.

6- Hồng thủy, cũng gọi là nạn Ðại Hồng thủy : Cuối triều vua Nghiêu, sông Hoàng hà tràn ngập, vua sai Cổn (cha Vũ) trị thủy, đắp đê 9 năm lại càng tai hại. Thuấn giết Cổn, sai Vũ trị, đào 9 con sông, vét 4 con sông khác để tháo nước ra biển, 13 năm mới yên. (Thượng Thư, tr. 1, 41, 47 - THSC, XX).

7- Văn Vương (1183-1135) là một trong Tứ Nhạc thời vua Trụ nhà Thương (sau gọi là nhà Ân), người Tây Di, hiền đức nhưng bị vua Trụ bỏ đi. Ðược con là Vũ Vương tôn lên ngôi vương.

8- Vũ Vương (1134-1116) là con Văn Vương, diệt vua Trụ nhà Thương bạo ngược, lập ra nhà Chu (1134-247). Diệt xong nhà Thương, phong cho con vua Trụ là Vũ Canh làm chúa đất cũ của nhà Thương và sai ba người em giám sát Vũ Canh (gọi là Tam giám).

9- Quản thúc là anh Chu Công Ðán, cùng với Vũ Canh phao vu cho Chu Công muốn giết Thành Vương để cướp ngôi. Bị Chu Công giết ở đất Thương. Cổ Học Tinh Hoa I, 191.

Sái thúc, em con nhà chú của Thành Vương, chúa nước Sái, cũng làm phản với Vũ Canh, bị Chu Công giam ở xóm Quách. Thượng Thư 162.

10- Chu Công tức Chu Công Ðán, em Vũ Vương, giúp Vũ Vương và Thành Vương (con Vũ Vương). Bị bọn Quản, Sái vu là muốn cướp ngôi, phải lánh hai năm sang miền Ðông. Vũ Vương ốm nặng, Chu Công viết chúc tự nguyện chết thay, cất vào hòm, niêm phong (có chỗ nói Chu Công bói biết là vua không việc gì). Tới mùa gặt, trời nổi giông bão, cây lúa đổ rạp, vua giở bản chúc ra xem mới biết Chu Công oan, hối khóc, Trời lại trở gió, cây lúa đứng trở lại hết. Chu Công dẹp xong bọn Quản, Sái, giết Vũ Canh, chiếm đất nhà Thương cũ nhập vào đất nhà Chu, phong cho Cơ Tử, họ vua nhà Ân, làm chúa nước Tống, Vi Tử, con cả vua Ân, làm chúa Cao-Ly. Thượng Thư 117-9.

11- Thái Tổ Cao Hoàng Ðế là Lê Lợi.

12- Hãn, Sảo : Trần Nguyên Hãn (con cháu nhà Trần), Phạm văn Sảo (người kinh lộ), có công giúp nước, được trọng vọng. Lê Thái Tổ cho là có chí khác. Sử Ký Toàn Thư, III, 83.

13- Ngân, Sát : Lê Ngân, Lê Sát là võ thần giúp Lê Thái Tổ dựng nghiệp, được liệt hạng công thần năm 1429.

- Ðại Tư đồ Lê Sát : Tháng 6 năm 1437 vua xuống chiếu kể tội Sát chuyên quyền, ghen người tài, ghét người hiền, giết Lê Nhân Chú, truất Trịnh Khả, bãi chức Ư Ðài (khuyên không nên tin dùng đại thần, Sát mấy lần xin giết) lưu viễn châu, đuổi Cầm Hổ (ngôn quan) ra biên thuỳ khiến gián quan câm miệng. Bị khép tội theo hình luật đáng chém nhưng vì là đại thần cố mệnh, có công với nước, được khoan thứ, chỉ bãi chức. Tháng 7, cho được tự tử trong nhà.

(Tuy nhiên sử cũng chép vua Thái Tông tin dùng hoạn quan, Lê Sát xin giết, vua không nghe, Sát cáo ốm, không vào chầu v.v...)

- Lê Ngân nguyên giữ chức Tư khấu. Tháng 7 năm 1437, vua lấy Chiêu nghi Lê Nhật Lệ, con Ðại Ðô đốc Lê Ngân làm Huệ phi, phế Nguyên phi Ngọc Dao, con Lê Sát, làm thứ nhân.

(SKTT , III, 69, 76, 82-3, 89, 103-119).

14- Ðời Ðào Ðường Trung quốc chia làm 9 châu. Thượng Thư, tr 56.

15- Tam hữu trạch tâm : Luận Ngữ, "Quý Thị" : "Ích giả tam hữu, tổn giả tam hữu", nghĩa là có ba hạng bạn ích lợi, có ba hạng tổn hại ; trạch là chọn lựa. Ý nói kết giao với bạn phải chọn bạn tốt, tránh bạn xấu (GS Nguyễn Khuê).

16- Thiệu Công Thích là con Văn Vương, em Vũ Vương, giữ chức Phương Bá Di, ban bố chính lệnh ở phương Nam.

17- Thành Vương là con Vũ Vương, vua thứ ba nhà Chu, khác với Thành Thang là vua đầu nhà Thương, đã giết vua Kiệt nhà Hạ Vũ, lập ra nhà Thương (1766-1123).

18- Tam giám : Quản thúc, Sái thúc, Hoắc thúc có trách nhiệm giám sát Vũ Canh. Thượng Thư 162.

19- Cầm Hổ là ngôn quan họ Bùi, ngăn không cho Lê Sát dùng lại Trịnh Hoành Bá trước kia bị Thái Tổ cho là nịnh thần, bỏ kkhông dùng, Lê Sát muốn dùng lại, Cầm Hổ vì tâu hặc Sát, bị đầy ra biên thùy. Sau khi Sát bị bãi chức, làm Ngự sử Trung thừa. SKTT, III , 83, 92, 119.

20- Thiên Tước : có lẽ là Nguyễn Thiên Tích ? Theo Cương Mục IX, tr. 35 : Trịnh Hoành Bá trước kia bị Thái Tổ bỏ không dùng, Lê Sát cho là có tài muốn dùng lại. Ngôn quan là Bùi Cầm Hổ và Nguyễn Thiên Tích can rằng tiên đế đã có chỉ dụ không cho dùng Hoành Bá.

21- Trong Luận Ngữ, "Kinh" là phần chép lại những lời dậy của Khổng Tử, "Truyện" là phần môn đệ Khổng Tử giảng giải ý nghĩa của "Kinh".

22- Cao Dao làm chức Sĩ thời Ðại Vũ, coi về hình pháp, trị dân bằng khoan hồng, trồng đức, sửa mình. (Thượng Thư 32-6).

23- Y Doãn dậy vua Thái Giáp, con Thành Thang (người đánh vua Kiệt nhà Hạ, lập ra nhà Thương) : yêu từ người thân, kính từ người trưởng, bắt đầu từ nhà, đến nước, cuối cùng tới bốn biển... Sửa mình cho có đức, dân chỉ mến người có nhân. Thượng Thư 68-72.

24- Phó Duyệt : Vua Cao Tông xong tang ba năm vẫn không chịu nói, bầy tôi can, vua viết thư dụ : "Kính lặng để nghĩ về đạo. Ta chiêm bao thấy Thượng đế cho ta người giúp việc tốt, hắn sẽ nói thay ta. Xét Duyệt ở nội Phó nham thật hệt, lập làm Tướng, để ngay cạnh mình, sớm hôm dâng lời dậy để giúp đức ta". Duyệt được coi trăm quan, chủ trương : chức không tới kẻ thân riêng, cốt phải người tài, tước phong cốt phải người hiền. Chính trị phải thuần nhất, việc phải chăm, có dự bị thì không lo. Chẳng phải biết là khó, làm mới là khó. Thượng Thư 86-9.

KHOA QUÝ MÙI (1463)
BÀI VĂN SÁCH CỦA TRẠNG NGUYÊN LƯƠNG THÊ VINH *
Chế sách của Hoàng thượng hỏi :

"Các bậc đế vương thánh thần thời thượng cổ, nối trời trị đời, dạo đó rất là thuần phác. Cho đến đời sau mới có thuyết Phật, Lão dấy lên mới bắt đầu có chuyện bàn về tam giáo (Nho, Phật, Lão) mà lòng người với trị đạo thật không còn như xưa. Giáo lý đạo Phật, đạo Lão hết thẩy đều mê đời, lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể xiết mà lòng người rất ham, rất tin. Ðạo của Thánh nhân (Nho) lớn thì tam cương (1), ngũ thường (2), nhỏ thì tiết văn độ số (3) đều thiết dụng trong cuộc sống thường ngày mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng đạo Phật, đạo Lão, sao lại như thế ?

Nhà nước ta thiết lập quan, phân chia chức, lớn nhỏ cùng mối, trong ngoài nối nhau. Giữ việc cơ mật có Nội Mật Viện ; trấn giữ các miền có Ngũ Ðạo Quan ; xử kiện tụng có Ngũ Hình Viện ; lo giám sát có Ngự Sử Ðài ; nắm lễ nhạc có Lễ Nghi Viện ; giáo dư(o)ng nhân tài có trường Quốc Học, lộ học ; quản lý kho tàng và xây dựng có Nội Thị Sảnh ; thi hành giáo hóa ở các nơi xa có các quan phủ, lộ, trấn, huyện ; giữ gìn phép tắc, coi sóc việc quân có quân quan các vệ. Tất cả những việc ấy dặt ra thẩy đều vì dân cả. Thế mà mọi việc chưa được sáng tỏ, hình ngục còn lạm, kỷ cương chưa giữ gìn, lễ nhạc chưa hưng thịnh, nhân tài chưa phát triển, của cải chưa phong phú, hàng hóa chưa lưu thông, đức trạch chưa nhuần thấm, quân dân còn oán thán, tệ xấu chưa trừ, việc tốt chưa thấy là cớ tại sao ?

Ðiều cốt yếu để làm nên thịnh trị không ngoài ở chỗ làm sáng tỏ đạo Thánh, chính đáng nhân tâm, trừ dị đoan, bỏ tệ xấu, làm việc tốt. Làm được những điều ấy tất có thuật của nó.

Sĩ đại phu bác cổ thông kim hãy đem những hiểu biết viết ra rõ ràng, Trẫm sẽ đích thân xem xét."
 
 

VĂN BÀI CỦA TRẠNG NGUYÊN LƯƠNG THẾ VINH

Thần xin đối. Thần nghe :"Tà thuyết làm hại Chính đạo là có nguyên do, thịnh trị có thể đạt đến là có nguồn gốc". Nguyên do nào ? Ðó là tại học tập bất minh. Nguồn gốc nào ? Chính là ở chỗ vua tôi trọn đạo. Nắm rõ điều này tất cái hại của tà thuyết, phương sách chính trị có thể được phân biệt rõ ràng.

Thần kính nghĩ Hoàng thượng Bệ hạ tiến bọn thần vào chốn điện đình, thân ban sách vấn, lấy việc Chính đạo, dị đoan để hỏi, lại lấy việc đời nay chưa trị làm lo, ý mong tìm phương thịnh trị. Xét thần ngu thiển, sao đủ để biết, nhưng người xưa có nói :"Phải hỏi han đến cả người cắt cỏ, kẻ kiếm củi" (4) huống hồ thần lạm dự hàng khoa mục tới đây, sao dám im lặng không dâng một lời nào ? Thần kính cẩn chắp tay cúi đầu xin đối.

Thần cúi đọc sách vấn của Thánh thượng hỏi :

"Các bậc đế vương thánh thần thời thượng cổ, nối trời trị đời, đạo đó rất là thuần phác. Cho đến đời sau thuyết Phật, Lão dấy lên mới bắt đầu có chuyện bàn về tam giáo mà lòng người với trị đạo thật không còn như xưa. Giáo lý đạo Phật, đạo Lão, hết thẩy đều mê đời, lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể xiết mà lòng người rất ham, rất tin. Ðạo của Thánh nhân lớn thì tam cương, ngũ thường, nhỏ thì tiết văn độ số đều thiết dụng trong cuộc sống hàng ngày mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng đạo Phật, đạo Lão, sao lại như thế ?"

Qua lời sách hỏi, thần đã thấy Bệ hạ thực biết đạo Thánh có thể thi hành mà dị đoan là sai trái. Thần xin được diễn giải thêm. Thần nghe :"Nhất âm nhất dương" (5) là đạo tồn tại trong trời đất, "Nối đạo là thiện, thành đạo là tính" (6) là đạo đã hòa vào người vào vật. Duy có bậc Thánh nhân có thể làm được đến cùng điều đó, vậy có thể quy cả vào Thánh nhân được hay sao ? Bởi vì (Ðạo) nguồn gốc ở Trời mà trọn vẹn cuối cùng ở Thánh nhân cho nên mới gọi là "nối Trời". Ðạo thể của Thánh nhân tất phải thực thi ở "dụng" (7) cho nên mới gọi là "xuất trị". Phục Hy vẽ Bát quái (8) để thông tỏ thần minh, Thần Nông (9) làm ra cầy bừa để làm giầu dân sinh, đều là sự phát triển của đạo ấy cả. (Vua phê :"Khá đạt ý"). Ðến đời Hoàng Ðế, Nghiêu, Thuấn (10) thần đạo đã biến hóa, cùng dân thích nghi, có cái gì không phải là thực sự "nối Trời xuất trị" ? Do đó đạo truyền đến đời Hạ Vũ (11) thì có luận thuyết "tinh nhất chấp trung" (12) đạo truyền đến đời Thang, Vũ (13) thì có cái ý "kiến trung lập cực" (14). Chính cái thuần khiết của đạo đã có từ lâu lắm vậy. Kinh Dịch nói :"Họ Phục Hy mất thì họ Thần Nông nổi lên, họ Thần Nông mất thì họ Hoàng Ðế nổi lên, họ Hoàng Ðế mất thì Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn nổi lên". Hàn Tử (15) nói :"Nghiêu lấy đạo ấy truyền cho Thuấn, Thuấn lấy đạo ấy truyền cho Vũ, Thang, Văn, Võ" chính là nói về điều ấy. Ở vào thời đó, trên thì chính trị hưng thịnh, dưới thì phong tục thuần mỹ, Chính đạo thi hành ở đời như mặt trời mặt trăng trên trời, như vậy thì dị đoan ở đâu mà có ? Cho đến đời đức Khổng Tử đạo Thánh không thực hành được mới bắt đầu có cái lo "chuyên chủ vào dị đoan". Ðến thời Mạnh Tử (16), cách thời các thánh xa nên mới có những lời chống lại Dương Chu (17), Mặc Ðịch (18). Từ đời Hán về sau, đạo Thánh ngày một suy yếu mà thuyết Phật, Lão lại mạnh lên. Nhà Phật lấy sự tịch diệt làm cao, mở đầu từ Hán Minh Ðế (19) đã vào Trung quốc. Ðạo Lão coi trọng hư vô thì khởi đầu từ đời Hán mà thịnh lên từ đời Ðường, đời Tống. Từ đó, đời sau mới có thuyết tam giáo. Nhưng mà đạo Thánh là chính, Phật, Lão là tà, sao có thể đường hoàng cùng nhau thành ba đạo được ? Những người đời sau không xét được chỗ đó mà còn ngờ vực, do đó người đối với trị đạo không được như xưa. Giáo lý đạo Lão gần như có lý mà lại rối loạn, như thế thì nó mê đời lừa dân, che lấp nhân nghĩa, quả là có vậy. Ðạo Thánh nhân có một vật ắt có một lý, tam cương, ngũ thường, tiết văn độ số, không gì không đầy đủ. Cái hại của Phật, Lão như thế đáng lẽ dân phải không tin mà ngược lại, lại cứ tin. Ðạo Thánh nhân như thế đáng lẽ dân phải chuộng mà lại ít chuộng. Sở dĩ như thế không có gì khác, chính là do đời suy đạo yếu mà ra cả. (Vua phê là đúng). Cho nên Chu Công (20) chết đi thì trăm đời sau không có người giỏi trị dân, Mạnh Tử mất đi thì ngàn năm sau không có bậc chân Nho. Vả lại đến đời Hán, Ðường tuy chuộng Nho nhưng chưa có khả năng làm sáng được đạo (Nho). Tống Nho tuy làm sáng đạo nhưng lại không vận hành được đạo, như vậy lòng dân sao lại không bị hãm vào đạo Phật, đạo Lão được ?

Huống hồ thuyết lý nhà Phật, cái ý "kiến tính thành Phật" (21) của họ đã đủ làm mê lầm người có học thức ; cái luận "thiện ác quả báo" của họ cũng đã đủ gây sợ hãi cho dân thường. Do đó lòng người dễ bị mê hoặc. Còn cái thuyết lý đạo Lão, cái nghĩa "huyền chi hựu huyền" (22) đủ để làm chuyện luận bàn, thuyết "thần tiên bất tử" lại đủ để dụ dỗ phàm nhân, do vậy lòng dân dễ bị hãm vào vòng đó. Bậc hùng tài như Hán Vũ Ðế (23) còn thích đạo sĩ, cầu thần tiên, bậc chuộng Nho thuật như Hán Minh Ðế còn sai sứ đi Tây Vực, như thế thì sao dân không ham mê Phật, Lão được ? (Quan Ðộc quyển phụng phê là :"Nghị luận sắc bén"). Bài biểu can ngăn việc đón hài cốt Phật vừa dâng lên đã làm cho Ðường Hiến Tông cả giận, lấy ý "Trời có nói gì" can gián mà Tống Chân Tông không nghe. Như vậy thì sao dân lại không hâm mộ Phật, Lão ? Còn đạo Thánh nhân như Trời, không biết nó thì không thể ham nó được, không ham nó thì không vui với nó được. Vì thế mà dân ít người có thể theo được đạo. Như thế không có gì khác, chính là đạo Thánh cùng với dị đoan tương phản nhau như âm với dương, như ngày với đêm, cái này thịnh thì cái kia suy, cái kia thịnh thì cái này suy, đó là cái lý tất nhiên ! (Vua phê là đúng). Hàn Tử nói :"Không dừng thì không đi, không tắc thì không chẩy" chính là nói điều ấy.

Thần cúi đọc sách của Thánh thượng hỏi :

"Nhà nước ta thiết lập quan, phân chia chức, lớn nhỏ cùng mối, trong ngoài nối nhau. Giữ việc cơ mật có Nội Mật Viện ; trấn giữ các miền có Ngũ Ðạo Quan ; xử kiện tụng có Ngũ Hình Viện ; lo giám sát có Ngự Sử Ðài ; nắm lễ nhạc có Lễ Nghi Viện ; giáo dư(o)ng nhân tài có trường Quốc học, lộ học ; quản lý kho tàng và xây dựng có Nội Thị Sảnh ; thi hành giáo hóa các nơi xa có các quan phủ, lộ, trấn, huyện ; giữ gìn phép tắc coi sóc việc quân có quân quan các vệ. Phàm những chức việc đặt ra này đều là vì dân cả. Thế mà mọi công việc chưa sáng tỏ, hình ngục còn lạm, kỷ cương chưa gìn giữ, lễ nhạc chưa hưng thịnh, nhân tài chưa phát triển, của cải chưa phong phú, hàng hóa chưa lưu thông, đức trạch chưa nhuần thấm, quân dân còn oán thán, tệ xấu chưa trừ, việc tốt chưa thấy là cớ tại sao ?"

Thần kính nghĩ :"Trời dựng Hoàng gia tìm người có đức. Ðức Thái Tổ Cao Hoàng Ðế ta (24) với thiên tư trí dũng Trời ban ở vào buổi khó khăn rối loạn, cứu muôn dân trong cảnh lầm than, dẹp chiến tranh khắp miền đất nước. Vào buổi đầu dựng nước, thiết lập quan chức, định rõ chế độ, lớn nhỏ nối nhau, trong ngoài một mối, tất cả là vì dân dựng nên. Nói rằng "việc xếp đặt quan lại cũng đều là vì dân mà làm" chính ở chỗ đó. Kế đó đức Thái Tông Văn Hoàng Ðế nối ngôi thì quan chế lại càng hoàn bị. Kinh Thi nói "Không thiếu không quên, đều làm như sách cũ". Kinh Dịch nói :"Bậc đại nhân kế sáng chiếu tỏa bốn phương" là nói về điều đó.

Nay Bệ hạ nối nghiệp tiền thánh, vận mở trung hưng, thường răn quần thần làm hết chức trách, thường muốn dùng người phải lấy công tâm, vỗ về rộng lớn để thành phong tục, làm sáng tỏ công lao chính là ở thời nay. Thế mà Bệ hạ còn lấy việc chưa thịnh trị làm lo, có thể thấy tấm lòng muốn thịnh trị và sự canh cánh cầu thịnh trị của Bệ hạ vậy. Tấm lòng Bệ hạ như vậy khiến thần tuy bất tài sao dám có sự dấu che ?

Thần kính xét Kinh Thư nói :"Việc trị loạn tại các quan". Từ đó mà xem thì quan chức có được tu chỉnh hay không chẳng phải là rất quan hệ đến trị đạo hay sao ? Thần trộm nghĩ thời nay, nếu cho rằng trăm quan đều không làm hết chức trách là không thể được. Vì sao lại nói như thế ? Như Nội Mật Viện nắm các việc cơ mật, Bệ hạ đã giao cho Tể thần trông coi, lại chọn thêm văn thần để giữ việc, cố nhiên các vị này không có gì không làm nhưng trong số đó quả là không có sai sót hay sao ?

Lại như Ngũ Ðạo Quan coi giữ các miền trong nước, Bệ hạ đã giao cho những người biết rõ đạo trị để giải quyết, lại chọn những người liêm khiết tài năng đễ giữ việc, những chức này cố nhiên đã chọn được người nhưng trong số đó quả hết thẩy đều là người tài giỏi chăng ? Do đó cho nên các công việc chưa hoàn toàn sáng tỏ.

Ðến như việc hình luật, "hình" tức là "thành", và một khi đã "thành" thì không thể biến đổi. Như thế thì trọng trách của hình quan thế nào cũng có thể biết được. Nay những người giữ việc ngũ hình (25) cố nhiên đã có người tài nhưng đã quả là ai cũng giỏi như các ông Thích Chi, Ðịnh quốc đời trước chưa ? Trên núi có mãnh thú thì không ai còn dám hái rau, triều đình có quan lại chính trực tất gian tà không thể nổi lên, như thế thì trọng trách của các gián quan thế nào cũng có thể biết được. Nay những người làm việc ở Ðài Hiến cũng có những người cương trực hiền tài nhưng đã quả là ai cũng tài giỏi như các bậc hiền Trương Cương, Phạm Bàng đời trước chưa ? Như thế thì việc kỷ cương chưa được thi hành cũng không dám bảo đảm là không có.

Phàm việc yên triều đình, trị muôn dân không gì trước hơn lễ, thay đổi phong tục không gì trước hơn nhạc. Việc nắm giữ lễ nhạc của bản triều thẩy quy tụ về Lễ Nghi Viện. Lễ nhạc dùng ở triều đình đã rất tốt đẹp nhưng đáng tiếc là vẫn chưa thấu xuống tận dân quê. Việc giáo hóa thi hành thì phong tục tốt đẹp, đạo Thầy được đề cao tất người thiện mới nhiều, như thế thì giáo chức có quan hệ với trị đạo rất to lớn. Trách nhiệm giáo dục nhân tài của bản triều là ở các trường Quốc học, lộ học. Việc dậy văn nghệ đã có phép tắc nhưng cái đáng lo là chưa dậy cho thấu đáo về đức hạnh mà thôi.

Còn như của cải chưa phong phú là do chính sách tốt chưa làm trọn vẹn, hàng hóa chưa lưu thông chính bới cấm lệnh chưa được triệt để thi hành, há chỉ là trách nhiệm của riêng Nội Thị Sảnh hay sao ?

Thần nghe các bậc tiên nho nói rằng :"Các quan thú lệnh (quan địa phương) chính là người thầy, là vị tướng soái của dân để vâng mệnh giáo hóa các nơi". Các quan thú lệnh có tài đức hay không rất quan hệ đến sự sướng khổ của dân, do đó dùng người làm thú lệnh không thể không chọn người tài giỏi. Thần trộm thấy thời nay các quan ở phủ, lộ, trấn, huyện, người làm hết chức trách thì ít, kẻ làm không hết chức trách thì nhiều, cho việc giáo hóa là thế nào ? Nói những điều nói chỉ là những việc ngọn như xử kiện, thúc thuế. Cho việc di dân là thế nào ? Làm những việc làm chỉ trong chuyện sổ sách, hội họp ? Con hiếu cháu hiền, nghĩa phu, tiết phụ là những người đáng được triều đình khen ngợi mà các quan đề bạt kể được mấy người ? Góa vợ góa chồng, không con không cha là những người không thể tự sinh tồn, triều đình rất là thương xót mà các quan tâu lên chẳng được là bao ! Những người nắm giữ việc này chưa mấy ai làm tròn trách nhiệm.

Thần lại nghe Kinh Dịch nói :"Quẻ sư, chính đáng, bậc lão thành thì tốt", lại nói :"Người cầm đầu ra quân tất phải nắm được quy luật cuộc chiến", cho nên không thể không chọn người tài giỏi. Thần lại nghe :"Lúc này những người nắm quyền binh, xứng đáng với chức vụ thì ít, không xứng đáng với chức vụ thì nhiều". Tiếng là võ quan mà thông thạo vũ lược được mấy người ? Chức là cầm quân mà am hiểu tình quân được là bao ? Vơ vét là việc triều đình nghiêm cấm mà vẫn lấy lạm của quân như thế ; vỗ về thương xót lê dân là bản ý của triều đình mà vẫn coi thường cấm lệnh, hoành hành bạo ngược như thế, do đó mà chức trách kẻ cầm quân vẫn chưa làm trọn. Như vậy thì đức hạnh của Bề trên vẫn chưa thấm nhuần xuống dưới, quân tình cón oán thán, há có thể không có chuyện đó hay sao ? Do vậy mà tệ xấu chưa được trừ mà hiệu quả tốt vẫn chưa thấy được.

Thần cúi đọc sách chế của Thánh thượng hỏi :

"Ðiều trọng yếu để thịnh trị không ngoài sự làm sáng đạo Thánh, chính nhân tâm, trừ dị đoan, bỏ tệ xấu, làm việc tốt. Có hiệu quả như thế tất phải có chước thuật của nó.

Sĩ đại phu bác cổ thông kim, hãy viết rõ ra, Trẫm sẽ đích thân xem xét".

Ôi, lời Bệ hạ như thế không chỉ là điều may mắn cho Chính đạo mà cũng là điều may mắn lớn cho thiên hạ. Ðạo Thánh không thể không sáng tỏ nhân tâm, không thể không chính đáng, mà tà thuyết ắt phải tẩy trừ, đó là điều trọng yếu của thịnh trị. Như vậy sự sáng tỏ đạo Thánh là gốc của sự chính đáng nhân tâm, trừ bỏ tà thuyết. Nếu như có thể "xem xét ở nhân văn để giáo hóa tác thành cho thiên hạ" thì cái sáng của đạo Thánh chính ở chỗ đó. Ðạo Thánh đã sáng tỏ thì cái lý đương nhiên người ta sẽ biết rõ. Nhân tâm đã chính đáng thì sự sai trái như thế người ta ắt phân biệt được, còn lo gì đạo Phật, đạo Lão làm hại ? Hàn Tử nói :"Phải bắt người của chúng (Phật, Lão) hoàn tục, đốt sách của chúng đi, biến chùa quán của chúng thành nhà ở, làm sáng tỏ đạo Tiên vương để dẫn giắt chúng". Mạnh Tử nói :"Người quân tử phải trở lại đường chính, đường chính đã sùng tất dân sẽ hưng thịnh, dân đã hưng thịnh thì không có gian tà" chính là nói về điều ấy. Ðến ngay các quan cai trị không thể không thâu tóm, các tệ xấu không thể không sửa đổi, việc tốt phải làm, đều là những phương sách trị nước vậy. Mà việc thâu tóm các quan lại chính là cái gốc để đổi cải tệ xấu, làm điều tốt. Nếu như có thể khảo xét thành tích để thăng chức cho người tài giỏi, giáng chức kẻ tối tăm thì việc thâu tóm các quan chính là như vậy. Ðể nắm chắc các quan tất chính sự không sai lầm mà tệ xấu không gì không được sửa đổi. Tệ xấu sửa đổi tất dân được hưởng phúc trạch mà điều tốt không gì không được làm. Kinh Thư có nói :"Kính cẩn chức quan của ngươi, sắp đặt chính sự của ngươi, muôn đời tốt đẹp cho dân, muôn nơi không khổ cực" quả nói về điều ấy chăng ? Phương sách trị nước vốn là như thế nhưng tìm cái gốc của việc ấy chính là ở chỗ Bệ hạ cùng triều thần phải "đồng tâm nhất thể" để đạt được như vậy ? (Vua phê :"Việc trị thiên hạ không vượt ra câu này"). Kinh Dịch nói :"Trời đất hòa hợp thì vạn vật hanh thông, trên dưới hòa hợp thì chí của họ đồng" đó là nói về "đồng tâm". Kinh Thư nói :"Ðầu óc sáng suốt, chân tay nhanh nhẹn, mọi việc tốt đẹp" đó là nói về "nhất thể". Thần mong rằng trên thì Bệ hạ, dưới thì triều thần, trên dưới hòa hợp tất cũng một lòng như Kinh Dịch nói, đầu óc chân tay tất cùng một thể như Kinh Thư nói. Vua biết rõ chức trách làm vua thì khó, bề tôi biết rõ trách nhiệm làm bề tôi là khó thì chính sự sẽ được sửa sang, muôn dân đều thấm nhuần đạo đức. Ðược như thế thì làm gì phải lo việc chính đáng nhân tâm, sáng tỏ đạo Thánh, trừ bỏ dị đoan không có cách, làm gì phải lo việc nắm các quan cai trị, sửa đổi tệ xấu, làm việc tốt không có đường ?

Kiến giải của thần như thế, thần không biết viển vông trong lời ấy, cũng không biết ngông cuồng trong lời ấy. Nhưng lời của kẻ ngông cuồng cũng có khi Thánh nhân chọn lựa. Thần cúi mong Bệ Hạ điều nào có thể chọn được mà chọn thì kẻ hạ thần vô cùng may mắn.

Thần kính cẩn dâng lời đối sách.
 
 

Vua phê :"Quyển này tường tận, minh bạch, không hổ danh là một bài đối sách. Ðọc văn đó mà lòng bứt rứt không yên".

Các quan Ðộc quyển : Thần Nguyễn Như Ðổ

Thần Nguyễn Phục

Thần Ðào Tuấn

Thần Nguyễn Vĩnh Tích

Thần Nguyễn Bá Ký

Thần Trạc

phụng phê : "Quyển này có học thức, khá trúng với sách vấn của Hoàng thượng". .Nguyễn văn Thinh dịch, Văn Thi Ðình
CHÚ GIẢI
[của GS Nguyễn Khuê (Chủ nhiệm bộ môn Hán Nôm khoa Ngữ văn Ðại Học KHXH và NV, TPHCM), của bà Nguyễn Thị Kim Phước và của Nguyễn Thị Chân Quỳnh]

* Lương Thế Vinh (1441- ?) người thôn Cao-hương, huyện Thiên-bản, nay thuộc tỉnh Nam-hà. Ðương thời gọi ông là thần đồng. Ông là tác giả Nam Tông Tự Pháp Ðồ (sử Phật giáo). Các văn thư bang giao với nhà Minh đều do ông soạn, tiếng tăm lừng lẫy Trung nguyên. Làm quan đến Hàn lâm viện Thị giảng Chưởng viện sự, nhập thị Kinh Diên, Tri Sùng văn quán. Sau khi mất được phong làm Phúc thần thôn Cao-hoàng. (Ngô Ðức Thọ, tr. 105 - Lê Mạnh Thát, 273).

1- Tam cương : đạo vua tôi, cha con, vợ chồng.

2- Ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

3- Tiết văn độ số (GS Nguyễn Khuê) Có thể hiểu hai cách : 1) Chia các hiện tượng trên trời ra từng phần mà tính số độ ; 2) Tiết giảm văn vẻ bề ngoài để giữ đúng tước vị của mình

4- "Hỏi người hái rau, kiếm củi" : Kinh Thi, "Ðại Nhã".

5- Nhất âm nhất dương là đạo tồn tại trong trời đất : Khởi điểm của tạo hóa là do âm dương tương đối mà đạo Trời cũng khởi đầu bởi sự biến hóa của hai cái tương đối ấy : Âm thịnh thì dương suy, âm suy thì dương thịnh, theo liền nhau, tương đối, tương điều hòa với nhau để biến hóa mà sinh ra trời đất, vạn vật. Nho Giáo 68-77.

6- "Nối đạo là thiện, thành đạo là tính" là đạo hòa vào người vào vật : Ðạo là theo thiên lý, thiên lý với bản tính con người vốn là một. Ðạo cốt để sửa cái tính của người cho hợp với thiên lý. Ðạo của Khổng Tử lấy hai chữ chí thiện làm cực điểm của đạo nhất thể, chí thiện là nhân, chủ lấy thiên lý làm gốc, dùng hiếu đễ, lễ, nhạc khiến người ta tiến lên bậc nhân. Nho Giáo 96-139.

Ở đời ai cũng như ai, cũng có cái tính do Trời phú cho (cái sáng để hiểu biết) rồi vì tập quán mỗi người một khác trừ những bậc thượng trí đã hoàn toàn không phải thay đổi, hay kẻ hạ ngu dẫu dậy thế nào cũng không trở nên hay được. Bậc trung nhân thì tùy cái giáo dục, tập quán mà thành hay hay dở. Tập từ lúc nhỏ, quen đi, thành cũng như thiên tính tự nhiên bẩm thụ của Trời đất. Cho nên trong đạo Nho, giáo hóa rất quan trọng.

7- Ðạo phải thực thi ở dụng : nghe được điều thiện thì phải đem ra thi hành, nuôi cái đức của mình mới là thành thực, chỉ nghe rồi lập lại ở cửa miệng, không thực thi thì học cũng như không.

8- Phục Hy (4486-4365) : Thời Phục Hy có con long mã từ sông Hoàng hà nổi lên, lưng có những hàng chấm như bức hình. Vua cho là điềm lành, phỏng theo chép thành Hà Ðồ, vạch ra Bát quái (8 quẻ) tượng trưng cho thiên hạ thái bình.

9- Thần Nông (trước Nghiêu, Thuấn) hiệu Viêm đế, dậy dân cầy ruộng, chợ búa, lại nếm cỏ làm thuốc.

10- Hoàng Ðế : (2698-2597) tên Hiên Viên, là vua đầu tiên ở Trung quốc, giết xong Xuy Vưu bạo ngược, được các thủ lĩnh tôn làm Cộng chủ, gọi là Hoàng Ðế. Vua đặt ra y phục, cung thất, xe thuyền, phân biệt trên dưới. Bắt đầu chế độ phong kiến, tam cương.

11- Ðại Vũ - Hạ Vũ : Vũ là con Cổn, có công trừ nạn hồng thủy, được vua Thuấn nhường ngôi, lập ra nhà Hạ, đặt ra Hồng Phạm Cửu Trù tức 9 loại khuôn phép (hồng phạm = khuôn phép) :

- Ngũ hành ;

- Năm việc : vẻ mặt, lời nói, trông, nghe, nghĩ ;

- Việc nông thì dùng 8 chính : ăn, của, cúng tế, Tư không coi thổ địa, Tư đồ coi giáo dục, Tư khấu coi hình phạt, khách, quân ;

- Năm kỷ : năm, tháng, ngày, các sao, phép làm lịch ;

- Dựng năm Hoàng cực (cực = tiêu chuẩn) : Vua thu họp năm phúc để ban cho dân. Dân trông nhà vua làm cực ;

- Trị thì dùng ba đức : ngay thẳng, cương, nhu ;

- Tỏ rõ thì xét ngờ ;

- Nghĩ thì dùng các điềm lành, dữ ;

- Khuyên thì dùng năm phúc : thọ, giầu, yên vui, ham đức, trọn mệnh tử tế ; Oai thì dùng sáu cực : chết non, bệnh tật, lo buồn, nghèo khổ, tội ác, yếu ớt. (Thượng Thư, tr. 109-114)

12- Tinh nhất chấp trung : Kinh Thư, thiên "Ðại vũ mô" nói "duy tinh duy nhất doãn chấp quyết trung" nghĩa là "Xét cho tinh, giữ một mực, tin giữ đạo Trung dung, không thái quá, không bất cập" (GS Nguyễn Khuê).

13- Thang, Vũ : Thành Thang phế vua Kiệt nhà Hạ, lập ra nhà Thương ; Vũ Vương diệt vua Trụ nhà Thương, lập ra nhà Chu.

14- Kiến trung lập cực : đứng ở mức trung dung (không thái quá, không bất cập) mà đặt ra các chuẩn mực (GS Nguyễn Khuê).

15- Hàn Tử : có lẽ là Hàn Dũ người đất Xương-lê, đỗ Tiến sĩ, hết sức chống dị đoan, can ngăn Ðường Hiến Tông đón xương Phật, vì cương trực nên bị biếm chức nhiều lần.

16- Mạnh Tử (372-289) tên Kha, học trò Tử Tư (tức Khổng Cấp, cháu nội Khổng Tử), được tôn làm Á Thánh của đạo Nho. Chủ trương thuyết con người sinh ra "tính vốn thiện" và thuyết "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" (Dân là quý, thứ đến xã tắc, vua đứng sau tất cả).

17- Dương Chu (440-380) tức Dương Tử, đề cao thuyết cá nhân vị kỷ, bác thuyết nhân nghĩa của đạo Nho, cho là nhân nghĩa chưa chắc lợi cho ai mà hại cho đời sống riêng mình, hi sinh là nguồn gốc của rối loạn, bỏ nhân nghĩa đi thì thiên hạ sẽ bình trị.

18- Mặc Ðịch (480-379) cũng gọi là Mặc Tử. Mặc học có hai điểm chính là "Kiêm ái" (yêu mọi người) và "Thượng đồng" (người trên cho là phải thì người dưới cũng nhận là phải).

19- Hán Minh Ðế nằm mê thấy kim nhân, tỉnh dậy bảo quần thần đoán mộng. Bác Nghị đoán là Phật, vua bèn sai Thái Âm, Cảnh Hiến đi Tây vực cầu đạo. Thái Âm đem về hai vị Sa môn, 42 chương kinh do ngựa trắng chở về. (Xin xem Lối Xưa Xe Ngựa..." , tập II, 237 của Nguyễn Thị Chân Quỳnh).

20- Chu Công Ðán, con Văn Vương, em Vũ Vương, có công sửa sang chính sự nhà Chu.

21- Kiến tính thành Phật : Theo Ðạt Ma Ngộ Tính Luận :"Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật" và Huyết mạch luận :"Nhược dục kiến Phật, tu thị kiến tính, tính tức thị Phật" : nếu muốn thấy Phật tất phải thấy rõ tâm tính mình. Tính tức là Phật (Nguyễn Thị Kim Phước).

Phật dậy mỗi người đều có Phật tính nơi mình. Phép tu Thiền Tổ sư / Thiền Ðốn Ngộ... truyền ngoài giáo lý, không qua kinh sách mà đi thẳng vào tâm người, vào cảnh giới Chân Như tức Phật tính, không để vọng tâm lôi cuốn, trực ngộ, thấy tính là thành Phật.

22- Huyền chi hựu huyền : Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh, "Ðồng vị chi huyền, huyền chi hựu huyền" : không thể phân biệt được giữa cái "Vô" và cái "Hữu" vì nó đã "đồng với nhau" về phẩm cũng như về sự hiện hữu. Cái "huyền" rồi lại "huyền hơn nữa" đó là chỗ vào ra, biến hóa của vạn vật trong vũ trụ. Ám chỉ Ðạo (Nguyễn Thị Kim Phước).

Lão Tử Tinh Hoa, tr. 188-9 : Huyền = đồng với nhau, không còn phân chia nhĩ ngã... Người hữu Ðạo được cái đức Huyền của Ðạo, bỏ khía cạnh phân biệt, diệt bản ngã, đồng hóa với Ðạo, tức là nhận hai mâu thuẫn âm dương, ngày đêm cùng một gốc là Ðạo, tuy hai mà một, vạn vật nhất thể.

23- Hán Vũ Ðế (thế kỷ VI) ngư(o)ng mộ đạo Phật, xây nhiều chùa tháp, sau bị cận thần Hầu Cảnh làm loạn, vây cung cấm khiến Vũ Ðế chết đói ở Ðài-thành.

24- Tức Lê Lợi.

25- Ngũ hình = 5 hình phạt là kinh (trổ chữ lên mặt), tỵ (cắt mũi), phỉ (chặt chân), cung (thiến), đại tích (chém đầu). (Thượng Thư 24).
 


 
KHOA NHÂM THÂN (1752)
VĂN THI ĐÌNH CỦA BẢNG NHÃN LÊ QUÝ ĐÔN
SÁCH VẤN

Bài văn thi Ðình của Lê Quý Ðôn, gồm cả phần Sách vấn, do GS Nguyễn Tiến Ðoàn sưu tầm, dịch và chủ giải, chưa từng công bố. Những câu hỏi ghi chữ số Ã Rập 1, 2, 3... do người dịch ghi, trong nguyên văn không ghi, không xuống dòng, viết liền một mạch).

Chế sách của Hoàng thượng nói :

1- Bề rộng của bốn biển, sự đông đúc của muôn dân, người giỏi việc trị dân biết quán xuyến mọi mặt chỉnh tề khiến ai nấy đều tuân theo lẽ phải, theo cái Lý tự nhiên. Chỗ khởi đầu của (1), nơi bắt đầu của Số (2) ấy vi diệu thay, vi diệu thay ! Cái có trước, cái có sau, hiện tượng chia rời, phân ly, Lão Tử gọi là "", họ Thích gọi là "", gần với Lý vậy (3). Muôn vật có thể tìm được ở cái giềng mối đó không ?

2- Thói quen ở trên cao, dưới thấp, loài ở dưới nước, trên cạn, Thánh nhân làm theo mà chẳng dừng ở đó. Cái để duy trì tình người, bảo vệ và dung hợp trên dưới, cũng có thể suy ra tường cứu (nghiên cứu rành rọt) được chăng ?

3- Ðạo trị thiên hạ, chế định phép trị nước, quyền thống ngự bách quan, phương pháp bảo vệ muôn dân, việc làm công bằng là điều rất lớn lao. Cho nên lãnh đạo trù tính công việc trong thiên hạ cũng có điều cốt yếu chăng ?

4- Cái gốc lớn của thiên hạ là ở lòng người ly hay hợp. Sự lãnh đạo của Thánh nhân phải chăng ở ý nghĩa làm cho mọi người trong nước thân cận, gần gũi, liên hệ với nhau. Hay là thấy nó rõ ràng là Lý mà thực hiện ư ?

5- Trên dưới, bốn bể đều ngay ngắn, chỉnh tề, là ý nghĩa của sự ràng buộc trong khuôn phép. Thấy được chỗ thẳng, chỗ cong của cây gỗ. Luận về nhân vật Trần Thiệp (4) ở Sơn đông, Thái sử công (5) suy cái lý đó mà viết thành lời có thể thông được không ?

6- Ðạo của vua Nghiêu, vua Thuấn, pháp độ của Văn, Võ có thể thi hành ở quốc gia và thiên hạ. Từ chỗ nào có thể thấy được ?

7- Ðịa vị trên dưới, sự thích nghi khi thăng, khi giáng ; thứ tự trước sau, công dụng của sự biến hóa. Bậc Thánh nhân sai khiến sự vật, cái gốc cũng ở chỗ tự nhiên chăng ?

8- Việc bãi binh cho dân chúng được nghỉ ngơi (Trẫm) thấy nói ở trong thời nhiễu nhương, loạn lạc mà dập tắt được chiến tranh là điều mong mỏi cao độ của bậc nhân quân. Cho nên bậc Thánh hiền hẳn phải có sự phòng bị nghiêm ngặt. Ðạo lý đó cần phải như thế nào ?

9- Ðạo bảo vệ nuôi dư(o)ng dân, thuật lôi kéo, dẫn dắt dân thì Quái từ trong quẻ Hằng, quẻ Cấn (6) khá giống nhau, song cái đạo tổng nhiếp, nắm vững được chí của dân, có phải một đầu mối có thể thấu suốt hết không ?

10- Cái nghĩa trong kinh Phật thiết yếu từ gia đình. Ở chỗ gần mà nói, có chỗ do dân tự cảm phát ra mà nói, thì dều cốt yếu quy về sự ngay ngắn tề chỉnh vậy. Ở mấy chương trên chưa đề cập đến phải chăng cũng theo tình tiết, thứ tự như thế chăng ?

11- Quản nhiếp bốn mùa, tổng nhiếp muôn loài, lý đó là một vậy. Khí số vũ trụ có sự tương tác với nhau, sự phân chia động tĩnh của Thái cực là điểm khởi thủy, là hệ thống, có phải như thế không ?

12- Nửa đêm - Gà gáy - Bình minh - đều rất giỏi ở mệnh lệnh chăng (7) ?

13- Về sau các đời Kiến hưng - Tự thánh -Thượng nguyên đều có sự kiến lập lịch khác nhau, quả là chuyện không thay đổi trong quy luật thường hằng ư (8) ?

14- Công năng của Ðức trị, tính chất của nó giống nhau. Bọn quan lại mưu trí, những người có tên tuổi về văn chương học thuật, các bậc vương giả tùy theo thời đại đều quý chuộng họ, song thể chế mỗi thời, sự cai trị có giỏi có kém, có hay có dở, vậy từ đâu mà biết được điều ấy ?

15- Tự thi hành Ðức trị sẽ cải hóa, nếu không kiến lập những quy phạm phòng giữ đất nước, chẳng phải Thánh nhân dùng sức lực mà dẫn tới tình hình, tình trạng đó. Ðức Khổng Tử than thở cho nước Lỗ (9), điều đó có thể hi vọng gì ?

16- Quan lại đông đúc theo vòng tuần hoàn mà sự nghiệp xây dựng quốc gia không chấn hưng được. Do vậy phải kiểm tra, kiểm sát, uốn nắn cho ngay thẳng, xử trí kiên quyết để cho đội ngũ quan lại nhất nhất như một, thuyết ấy có người cho là không đúng, thế thì cái mà họ muốn làm ấy là việc gì ?

17- Có người cho rằng làm chính sự cũng như chơi đàn cầm, đàn sắt, có dây dùng, có dây không dùng đến ư ?

18- Trung tín có thể cố kết lòng người, lễ nghĩa có thể làm phép tắc. Có người bàn luận, so sánh với đường lối trị nước của Thương Ưởng (10), Hàn Phi (11), thế thì điều quyết định của sự thành công (của việc trị nước) cũng là lấy số ít làm chuẩn, buộc sự vật phải ngang bằng nhau ư ?

19- Nắm được việc khinh, việc trọng, chế được phép tắc bên trong, bên ngoài, người bàn việc nước khen là thánh toán, là kế sách thần thánh, chả bao lâu cũng rối bời và thay đổi. Vậy thì 130 năm vô sự, việc cai trị cũng đa đoan (lắm đầu mối) lắm, chẳng phải chuyên dựa vào phép tắc vừa nêu ư ?

20- Học thuyết "Tề vật" của Trang Chu (12) gượng ép về lý vậy học thuyết "bất nhị" (13) ấy có thể đem thi hành cho công cuộc trị nước không ?

21- Soạn thảo điển lễ, sự chế tác của Thánh nhân phải dựa vào đâu ?

22- Sự sinh hóa của vạn vật, thiên hạ hòa bình, lý của sự cảm thông là như thế. Sự phân hợp của Thánh nhân có gì khác, có gì giống không ?

23- Thu những cái phóng ra, tập hợp những cái phân ly (14), đạo, làm cho thiên hạ tốt đẹp, cái gì là cốt yếu ?

24- Gồm những cái hay trong "Tần thệ" (15) mà tình yêu do còn ở chỗ đồng khí, như thế mới đủ sức thuyết phục lòng người ư ?

25- Bề trên thuận hòa khiến cho mọi người có đạo, bề dưới thuận hòa khiến cho ai nấy thăng tiến, vương nghiệp từ đó mà thịnh vượng, tứ tài (16) trở nên tốt đẹp vậy còn có điều gì để làm răn nữa ? Sao vậy ?

26- Chế ngự được ba trấn (17) chỉ bằng vào lời huấn dụ trước mặt. Nếu như thu phục được lòng người, những bố cáo, sắc dụ răn đe quả là ưu việt hơn việc đánh dẹp ư ?

27- Lường được cái chí của con người không dễ. Nghe ngóng, xem xét dân tình được thuần nhất, lòng dân ổn định, sự tồn tại của Trung đạo ở nơi đó vậy. Những việc chống đối ngu ngốc ở phiên trấn có thể nghiệm được sự cảm hóa ư ?

28- Mưu kế đã chín, kiên quyết thi hành, vừa cổ vũ, vừa trấn áp, phải có thuật vậy. Khảo xét thuật đó có ghi chép trong sách vở cả, có điều gì có thể suy ra được không ?

29- Nước Việt ta, các triều đại chính thống Ðinh, Lý, Trần, kế tiếp nhau, điều sở dĩ phòng ngừa, duy trì được (vương nghiệp), nhà nào có chế độ của nhà ấy, song cái công năng của việc trị nước thì có giỏi có kém, niên đại có lâu có chóng, có phải do khí vận từng triều đại không bằng nhau ư ? Hay là sự thi hành phép nước có chỗ được, chỗ không ?

30- Trẫm nay nối nghiệp theo đường lối của Tiên vương, trị lý sáng suốt thực nhờ ở Ðại Nguyên soái (18) nắm chắc chính sự trong nước, coi trọng quân đội, làm sáng vương nghiệp, chỉnh đốn kiền khôn (19), rộng mở nền trị giáo, cùng với các vị thân huân, đại thần, bách quan văn võ đồng tâm sửa sang, ủng hộ những điều gì gọi là đạo trị nước, không điều gì không thi hành. Cảnh cáo nghiêm khắc thói xin xỏ, bầy đặt. Nạn hối lộ phải chặn đứng. Lời khoan dung khắp chốn, nếp kiệm cận không để mất. Mỗi công việc đều lấy lòng trung chính của Kiền đạo (20) mà đối xử, lấy sự công bằng của Hoàng cực (21) làm phép tắc, ngăn chặn bọn xấu, bọn làm bậy, mở con đường chân chính cho mọi người. Thế mà tệ cầu cạnh riêng tư vẫn trầm trọng, đầu mối của tệ đó chưa được chặn đứng, thế thì thân ngay, bóng thẳng, nguồn sạch, nước trong, ngõ hầu không kê khảo vào thuyết nào ư ?

31- Thời cổ, bốn phương dân chúng thẳng ngay, hình luật của chư hầu chẳng hiểu họ thi hành theo đường lối nào mà có thể coi là mô thức lớn của thần dân thời ấy ?

32- Ðể tẩy sạch thói xấu đã kéo dài, làm cho triều đình ngay thẳng, bách quan ngay thẳng, cho đến muôn dân từ gần đến xa không ai không ngay thẳng, then chốt của vấn đề ở chỗ nào ?

33- Từ xưa việc trí trị, bách ty tuân thủ phép tắc ở bên trong, các quan trấn thủ phải thừa hành công vụ ở bên ngoài, nơi nơi phong khí như nhau, cả nước cùng một tập quán, sự tốt đã có rồi. Nay công cuộc trị bình, trách nhiệm và thành công trông cậy ở sự giúp rập của bách quan, từng thân sức, hướng dẫn, giáo huấn cho họ. Vậy mà việc lớn, việc nhỏ chưa một ngày nào thực hiện trúng lý, há cái gốc chính sự của các cấp điển ty chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình ?

34- Muốn có một nền chính trị thuần thục, bốn phương có pháp độ, đường lối phải thế nào ?

35- Những vụ hà lạm phiền nhiễu dân đã có những điều cấm, vậy mà lòng tham muốn đã thành lề thói, chính lệnh dối trá nổi lên, kẻ Bá mà trị nước thì chính lệnh ấy ắt được thi hành. Tình hình hiện nay chẳng riêng như thế. Khoan dung mềm mại như nước dẫn đến cái tệ đó. Sự cai trị của đế vương gốc ở lòng khoan dung. Lời dậy trong sách Luận Ngữ - Mạnh Tử chưa từng nói đến võ lực dũng mãnh, không thể dùng nó để biên soạn ra pháp luật, mà lời ẩn dụ về "lương nhục", "dược thạch" (22) là không thay đổi với lời bàn của Thánh nhân ư ?

36- Muốn cho pháp lệnh ban ra, chỉ có thi hành. Người ta không giả mạo, chỉ cốt sao thi hành cho đúng ý của cổ nhân, vậy làm thế nào để thi hành cho thích đáng với yêu cầu hiện nay ?

37- Xưa vua Nghiêu, vua Thuấn nhường ngôi cho nhau, ông Chu công, Thiệu công (23) vãn hồi được kỷ cương phép tắc, sự hài hòa rất mực vậy. Nay việc triều chính đồng lòng gắng sức, bên tả, bên hữu cùng nhau lo toan công việc. Khi có sự việc thì bàn bạc với nhau mà làm, "Giáp" có thể ra "Ất" không ? Nếu như ở chốn miếu đường thì có kế sách gì để lo toan, giải quyết ?

38- Kinh Thi gọi "Bá Huân - Trọng Trì" (24), Kinh Lễ gọi "Ðại pháp - Tiểu liêm" (25) sao chưa mấy xuất hiện ? Há thế đạo ngày một đi xuống, lòng người không thuần phác như xưa chăng ? Hay là việc ủy nhiệm có chỗ chưa trúng người, trúng việc chăng ?

39- Muốn cho những người tài giỏi cùng với triều đình lo toan cho muôn việc ổn định, có đường lối nào để khích lệ việc ấy ?

40- Ðể trong sạch tinh túy không pha tạp, trước sau như một không bị đứt quãng, cai quát muôn điều thiện là ý chỉ trong Kinh Thư, phải tuân theo quy luật "tam nghĩa" (26). Muốn cho dân sinh ổn định lâu dài, thế nước luôn cường thịnh, phải đi theo đường lối trị nước "giảm ngũ đăng tam" (27). Làm cho xã tắc này ức vạn năm giữ vững nghiệp đế, nghiệp vương, cái gốc ở đâu ?

Sĩ quân tử vốn có hoài bão, nay được bước chân tới chốn công triều, có phương pháp nào để khuyến miễn, hãy viết thành bài, Trẫm sẽ đích thân xem xét, lựa chọn để thi hành việc trị nước.

 Nguyễn Tiến Ðoàn dịch và chú thích

CHÚ GIẢI (của Nguyễn Tiến Ðoàn và Nguyễn Thị Chân Quỳnh)
(GS Nguyễn Tiến Ðoàn, sinh năm 1930 ở Thái-bình, sưu tầm, dịch, biên soạn tư liệu lịch sử... Ðã cộng tác với Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và các TC Nghiên cứu lịch sử, Văn Học, Hán Nôm... Tác phẩm : Kỳ Ðồng - Lịch sử và Thơ văn, Cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành (cùng với Thanh Vân)... dịch : Kỷ sự tân biên, Văn học Trung Cận Ðại Việt-Nam, Ðời sống cung đình Trung quốc (1997)... Ðã đoạt huy chương"Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt-Nam" (1999), "Vì sự nghiệp Bảo tồn Di sãn Văn hóa dân tộc" (2000) và nhiều giải thưởng).

1- Lý tự nhiên :Thiên lý.

= Lý Thái cực. Cái mối đầu của vũ trụ, gốc ở Lý Thái cực, do động, tĩnh mà biến thành âm dương (lư(o)ng nghi), lư(o)ng nghi sinh Tứ tượng (Thái dương, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm)... rồi sinh ra vạn vật, vạn vật chung quy lại trở về Thái cực. Người cũng bẩm thụ một cái Lý Thái cực như trời đất.

2- Lý học (đời Tống) dựa theo Kinh Dịch, chia ra ba thuyết : Tượng số học (Thiệu Ung), Ðạo học (Chu Ðôn Di, Trình Di, Trình Hạo, Chu Hy), Tâm học (Lục Cửu Uyên, Vương Thủ Nhân).

Số : (Tượng số học) Thiệu Ung, tức Thiệu Khang Tiết, viết sách Hoàng Cục Kinh Thế, về tượng số của trời đất, sự biến hóa của Lý Thái cực và Ðạo của Thánh hiền. Theo luật âm dương tiêu tức,

dùng cái "thể" và cái "dụng" của Tứ tượng mà lập thành Số (Tứ tượng biến hóa sinh ra vạn vật theo cái lẽ xướng họa, cảm ứng, hiểu được cái lẽ ấy có thể hiểu được vận mệnh, số hệ của trời đất, vạn vật) lấy tượng số mà xét vận mệnh trời đất rồi suy diễn ra sự hành động của vạn vật.

3- "Phật, Lão gần với Lý" : Học thuyết Phật, Lão cùng chung quan điểm với thuyết "Thiên địa vạn vật nhất thể".

: Lão Tử viết Ðạo Ðức Kinh, lấy "thanh hư" làm tôn chỉ, quan niệm "Ðạo thì hư vô", khi "vô" thì đạo là nguyên lý vô hình của trời đất, khi "hữu" thì đạo là nguyên lý hữu hình. Thiên "Hồng đức" trong Ðạo Ðức Kinh, đại khái nói : Trạng thái của Ðạo hư không, lặng yên, trong trẻo, ở giữa thống nhiếp, bao trùm muôn ngàn thực thể để thu về cái Một đơn thuần.

: Giáo lý căn bản của Phật là "Vô thường, vô ngã", "vạn pháp (vạn vật) là giả tướng, không phải thực tướng". Ta nhìn mọi sự vật bằng ảo giác, lầm tưởng là sự thật, phải nhìn bằng "Trí tuệ Bát nhã" mới giác ngộ. Phật giáo Ðại thừa không chối bỏ thế giới hiện hữu, tìm giải thoát mà không phá "Thế gian tướng", đã vô thường thì chấp nhận là vô thường, cho Thực tại không phải "có" mà cũng chẳng phải "không", không chấp cái "có" cũng chẳng chấp cái "không", "có" mà" không", "không" mà "có", chẳng phải "không có" mà là không có thật như ta nhận thức. Kinh Bát nhã nói :"Sắc bất dị không, không tức thị sắc".

4- Trần Thiệp : Vua Tần Nhị Thế (con Tần Thủy Hoàng) bạo ngược, Trần Thiệp tuy chỉ là một người dân tầm thường nhưng là người đầu tiên dấy quân chống lại vua Tần, rất được hưởng ứng vì vua Tần dùng bạo lực trị dân nên thất nhân tâm.

5- Thái sử công tức Tư Mã Thiên (145 ? - 90 ?), thời Hán Cảnh Ðế, nối nghiệp cha giữ chức Thái sử lệnh, viết sử, nổi tiếng với tập Sử Ký, chép sử từ thời Thượng cổ đến đời Hán, không chỉ chú trọng riêng về sử mà còn cả về văn hóa, xướng ra thể ký truyện.

6- Quái từ, cũng gọi là Thoán từ. Tương truyền vua Phục Hi vạch ra tám quẻ (Bát quái) tượng trưng cho vũ trụ : Lư(o)ng nghi chồng lên nhau sinh ra Bát quái (Ðơn quái) song Ðơn quái không đủ diễn tả hết mọi hiện tượng trong trời đất nên người đời sau đem 8 quẻ chồng lên nhau (8 x 8) thành 64 Trùng quái (quẻ Trùng). Vua Văn vương nhà Chu đặt ra "Thoán từ" tức là lời đoán ý nghĩa tốt xấu của mỗi quẻ.

Quẻ Hằng, số 32, trỏ đạo vợ chồng, phu xướng phụ tùy, đàn bà nhu thuận theo chồng là tốt (với đàn ông lại là xấu).

Quẻ Cấn, số 53, trỏ Ðức trọng hậu, tĩnh như núi (Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch, XI I I, XV).

7- "Nửa đêm - Gà gáy - Bình minh đều rất giỏi về mệnh lệnh chăng ?" : "Nửa đêm" là giờ Tý, "Gà gáy" là giờ Sửu, "Bình minh" là giờ Dần (03-05 giờ) là những "mệnh lệnh" báo hiệu giờ giấc cho mọi người theo đó mà làm việc (Nguyễn Tiến Ðoàn).

Lê Quý Ðôn giảng rằng lấy cách Kiến Chính (dựng tháng đầu năm) thời Tam Ðại (Hạ, Thương, Chu) thì nhà Chu dùng lịch Kiến Tý làm tháng đầu năm, nửa đêm là Sóc ; nhà Thương dùng lịch Kiến Sửu làm tháng đầu năm, lúc bình minh là Sóc ; Chính Sóc của nhà Hạ lấy Dần, chính lệnh của nhà Hạ ưu việt hơn nhà Thương và nhà Chu vì ở Tý, Sửu, khí dương còn quá ít, chỉ ở Dần muôn vật mới bắt đầu khai triển.

8- "Về sau các đời Kiến hưng, Tự thánh, Thượng nguyên đều có sự kiến lập lịch khác nhau quả là sự không thay đổi trong quy luật thường hằng".

Kiến hưng thuộc đời Hậu Hán-Ngụy Tào ;

Tự thánh thuộc đời Ðường Trung Tông (684, 705), Võ hậu (705-12) ;

Thượng nguyên thuộc đời Ðường Túc Tông (756-62).

* Nguyễn Tiến Ðoàn chú : "Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên, mỗi nguyên 60 năm". Phép nạp âm Giáp Tý thì Thượng nguyên hay Trung nguyên, Hạ nguyên đều khởi ở năm Giáp Tý. Thí dụ năm Khang Hy 23 nhà Thanh (1664) là Thượng nguyên Giáp Tý, 60 năm sau là Trung nguyên Giáp Tý (1724), đến 1804 là Hạ nguyên Giáp Tý. Sau 180 năm lại bắt đầu lại. Tác dụng của việc tính Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên có liên hệ mật thiết với việc soạn Nông lịch, chọn hướng nhà, mồ mả."

9- "Ðức Khổng Tử than thở cho nước Lỗ" : Lê Quý Ðôn viết rõ là Khổng Tử xem lễ Xạ, thấy dân tục đã dối trá, cúng tế qua loa cho xong chuyện, than thở cho nước Lỗ.

Lễ Xạ : lễ nghi về phép bắn cung, tiến thoái đều phải trúng lễ, bên trong phải nghiêm chỉnh, bên ngoài thân thể phải thẳng thắn thì mới mong bắn trúng. Phép bắn phải ngay thẳng như tâm để cho thấy đức hạnh của người bắn cung. (Kinh Lễ, 372 - TL I I, 91-2).

"Khổng Tử than thở..." có thể trỏ vào vụ Tề Cảnh Công thấy Lỗ Ðịnh Công dùng Khổng Tử mà nước cường thịnh, muốn ly gián vua tôi nước Lỗ mới đem đoàn nữ nhạc sang tặng vua Lỗ. Lỗ Ðịnh Công say mê nữ nhạc, ba ngày không thiết triều, Khổng Tử nghe chuyện than thở nhưng còn nấn ná đợi kỳ tế Giao xem vua Lỗ còn giữ đại lễ thì không đến nỗi nào. Ngày tế Giao, tế xong vua Lỗ phó thác việc chia phần thịt tế cho gia thần, Khổng Tử thấy không chia phần thịt tế cho mình, biết là Ðạo suy đồi mới bỏ nước Lỗ mà đi.

Có thuyết chép là vua Lỗ không thiết việc triều chính khiến các Lễ quan đang tế lễ ở Thái miếu cũng cúng tế qua loa cho đủ lệ, ném hương, đốt giấy (mã) cho nhanh để còn đi vui chơi chốn yên hoa.

(Ðiển tích này nói Khổng Tử than thở về vua nước Lỗ không giữ lễ khi Tế Giao chứ không nói Lễ Xạ).

- Cũng có thể trỏ chuyện Khổng Tử chủ tri lễ bắn cung ở chợ Quắc tương, sai Tử Lộ điều khiển lễ. Tử Lộ tuyên bố :"Những tướng thua trận, quan đại phu những nước mất, những ai nhận mình là con cháu người khác đều không được vào", người xem bỏ đi một nửa. Công Võng Chi Cầu và Tự Ðiểm nói về quy tắc :"Những người hiếu đễ, tu thân, được ở lại", người xem lại bỏ đi một nửa. "Những ai hiếu học, thích lễ, không thay đổi lòng dạ, không làm càn bậy được ở lại", số người ở lại không còn mấy (Kinh Lễ, 274-5).

(Ðiển tích này nói đến Lễ Xạ nhưng không rõ chợ Quắc tương có phải ở Lỗ hay ở chỗ nào khác).

10- Thương Ưởng là Tể tướng nhà Tần, chủ trương quyền hành tập trung vào vua, trị nước không cần Ðức, chỉ cần áp dụng hình pháp cho nghiêm minh, làm cho nước giầu mạnh là được.

11- Hàn Phi chủ trương Pháp trị và quân chủ chuyên chế, đả kích Nho giáo, cho trị nước bằng Ðức không hiệu nghiệm vì Không Tử là bậc thánh mà dậy 100 người chỉ may ra có độ 10 người theo đạo, nếu dùng hình pháp cho nghiêm thì chỉ độ 10 người dám gian ác, 90 người kia dù không hiền cũng có cái vẻ hiền lương.

12- "Tề vật luận", trong Nam Hoa Kinh của Trang Chu : Phải nhân chỗ bất đồng của vạn vật mà làm cho vạn vật "đồng", tức là cho vạn vật được sống tự nhiên theo cái sống của nó, theo bản tính, thế là tất cả bình đẳng. Mọi chế độ định áp đặt tiêu chuẩn chung cho hành vi của dân chúng, là cư(o)ng ép người phải sống theo ta, không cho tự do sống theo họ, mà bình đẳng là phải có tự do.

13- Bất nhị : Không nhìn đời bằng cặp mắt nhị nguyên tức là cách nhìn đời bằng lý trí, so sánh, phân biệt thiện ác.

14- "Thu những cái phóng ra, tập hợp những cái phân ly..." : Ðại Học, 27 :"Ðức là gốc, của cải là ngọn. Của cải tích trữ thì dân tản mát, phân phát đi thì dân tụ lại, sung túc".

Kinh Lễ, 349 :"Của cải tụ lại là dân ly tán, của cải ly tán là dân tụ lại".

Nguyễn Tiến Ðoàn :"Ðây là một mệnh đề triết học, thu phóng có thể vận dụng nhiều cho việc trị nước".

15- Tần thệ : Lời thệ nguyện, tự hối của Tần Mục Công. Mục Công sai quân đi đánh nước Tấn, Kiển Thúc và Bách Lý Hề can ngăn, Mục Công không nghe bị đại bại, quân sĩ chết rất nhiều, ba tướng bị bắt sống. Sau đó Mục Công lại cử binh đi báo thù, đến Hào sơn thu nhặt hài cốt những quân sĩ tử trận lần trước để an táng. Mục Công khóc mà nói :"Người xưa tính việc, chịu nghe lời người già cả nên không l(o) lầm. Chỉ vì ta không biết nghe lời Bách Lý Hề và Kiển Thúc cho nên mới đến nỗi này. Nay ta có mấy lời răn bảo để hậu thế nhớ lấy lỗi lầm của ta ".

16- Tứ tài : nơi biên tái ở bốn phương (có phòng giữ ).

17- Ba trấn : Thời Ðường Vũ Tông, Lý Ðức Dụ dùng lời nói chiêu hồi được ba trấn U châu, Thành đức, Ngụy bác,

18- Ðại Nguyên so ái : chúa Trịnh.

19- Kiền Khôn : trời đất.

Chỉnh đốn kiền khôn : (Lê Quý Ðôn) sửa sang đạo trị nước, chấn hưng, mở rộng nền trị giáo.

20- Kiền đạo : đạo Trời lớn, có Ðức, cứng mạnh, trung chính, mầu nhiệm, sinh hóa và dư(o)ng dục muôn loài, làm cho muôn loài sinh sống đều hòa, không hại lẫn nhau, bốn mùa đúng nhịp không trái nghịch nhau.

Nguyễn Tiến Ðoàn :"Hoặc gọi "Kiền tượng", "Khôn tượng". Ðức không hẳn chỉ vào đạo đức mà là tính chất nữa. Kiền có 77 đức, Khôn có 80 đức".

21- Sự công bằng của Hoàng cực : Sự vô tư của trời đất ("cực" là tiêu chuẩn).

Theo sách của Thiệu Ung thì Hoàng cực ở trung cung bát quái. Số 5 là số của Hoàng cực, là số quân bình của hiện tượng âm dương điều hòa. (Chu Dịch Huyền Giải, 10).

Mạnh Tử, 237 : Chấp trung : giữ cho vừa phần mình và phần người.

22- Lương nhục, dược thạch : Nguyễn Tiến Ðoàn giảng là "thịt gỗ, thuốc đá". Ðây là một thành ngữ. Trỏ chính sách cứu vãn tình thế của Thôi Thực muốn vực dậy tình hình nước Tề thời Tề Hoàn Công đã suy vi.

"Lương nhục" chưa tra cứu được điển tích.

"Dược thạch" : thuốc trị bệnh có một thành phần dùng đá (như alun). Ẩn ngữ của nhà chùa thì "dược thạch" có nghĩa là ăn cơm muộn, một cách trị bệnh đói khát.

23- Chu Công Ðán : giúp Vũ Vương và Thành Vương nhà Chu, trị nước theo nho đạo. (Xin xem chú thích số 8 & 10 bài của Nguyễn Trực).

Thiệu Công Thích công bố đức chính của nhà vua ở các nước chư hầu (bên ngoài) trong khi Chu Công chuyên việc trị nước bên trong.

24- (Kinh Thi) Bá Huân, Trọng Trì : "Anh họ Bá thổi cái bầu, em họ Trọng thổi ống sáo" ý nói cùng là bề tôi vua, coi nhau như anh em, tiếng nhạc ứng hôa (Kinh Thi, I I, 1082-3).

25- (Kinh Lễ) Ðại pháp : Ðại thần gương mẫu (Lê Quý Ðôn).

Tiểu liêm : Tiểu thần thanh liêm (Lê Quý Ðôn).

26- Tam nghĩa : Trời, Ðất, Người (Nguyễn Tiến Ðoàn).

27- Giảm ngũ đăng tam : Trỏ "tam vương, ngũ bá" (Nguyễn Tiến Ðoàn).

Tam vương là vua Vũ nhà Hạ, vua Thang nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu, đều được coi là trị dân có đức, hiệu lực lâu bền, đó là "vương đạo".

Ngũ Bá thời Xuân thu là Tề Hoàn Công, Tấn Văn công, Tống Tương Công, Tần Mục Công, Sở Trang Vương. Ngũ Bá là những chư hầu cường thịnh nhờ dùng võ lực, có hiệu quả ngay nhưng không lâu bền nên bị coi là "bá đạo" (đức kém).

(Ý nói muốn cho nước cường thịnh lâu dài phải bớt theo đạo của ngũ bá (Bá đạo) tức là dùng bạo lực sai khiến người ta, mà nên theo vương đạo, trị nước bằng Ðức).

* Cũng có thể trỏ vào "Ngũ hình" (thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến, chém đầu). Muốn cho nghiệp đế lâu dài nên khoan thứ, giảm bớt ngũ hình để gây "ba đức" (cương, nhu, ngay thẳng) là một trong 9 phép trị nước trong "Hồng Phạm" (Kinh Thư, 193-4).

Theo "Lã hình" ("Lã" trỏ Lã Vọng tức Khương Tử Nha) : Cho dù tội danh như nhau song cũng còn tùy trường hợp mà cân nhắc nặng nhẹ. 5 hình còn ngờ có thể xá, để gây nên ba đức. Thượng Thư, 193-4.

VĂN THI ĐÌNH CỦA BẢNG NHÃN LÊ QUÝ ĐÔN

Thần xin thưa :

Thần được nghe việc trị nước vốn có đạo của nó, việc trí trị ắt phải có cái gốc của nó, song đạo trị thiên hạ đạt tới sự tổng nhiếp chỉnh tề vốn là việc hàng đầu. Tuy nhiên, việc thi hành không coi sự giành lấy một thắng lợi (nào đó) làm căn bản, phải làm sao thấu suốt đời sống của nhân dân, thế nước luôn mạnh, theo con đường trị đạo "giảm ngũ đăng tam" (1) làm cho xã tắc muôn đời giữ được nghiệp đế, nghiệp vương. Chúng ta biết sự tích xưa nay là như thế, có thể khảo xét rõ ràng. Cái lý làm cho ngày nay đạt được hiệu quả chẳng lo không có cái gốc ấy.

Thần kính cẩn trước Hoàng đế Bệ hạ, truyền thống văn võ thánh thần của nhà vua, coi việc sửa sang nền trị giáo, chăm lo đến quân đội làm trọng, chưa bao giờ coi nhẹ việc tìm kẻ sĩ tài năng. Có thể nói công việc ấy là hàng đầu, đặc biệt khẩn cấp. Ðây là lúc rảnh rỗi trong muôn nghìn công việc của Bệ hạ, thần được tới điện đình, được ban những lời ôn hậu (2).

Ðầu tiên Bệ hạ hỏi rằng :"Bề rộng của bốn biển, sự đông đúc của muôn dân, người giỏi việc trị dân, biết quán xuyến mọi mặt chỉnh tề khiến ai nấy đều tuân theo lẽ phải..." và trình bầy sự tích xưa nay. Lấy những cách ngôn trong Kinh Truyện (3) yêu cầu dẫn ra những điều còn có hiệu lực cho hôm nay mà hỏi nơi thần, đoái hoài tới kẻ ngu lậu này. Thần sao đủ kiến thức giãi bầy lên trên cho chí lý được ? Song Bệ hạ đã hỏi, dám xin một lòng bộc bạch nông cạn để đáp lại tấm lòng ưu ái của Thiên tử.

Thần cúi đọc chế sách rằng :"Bề rộng của bốn biển, sự đông đúc của muôn dân, người giỏi việc trị nước biết quán xuyến mọi mặt chỉnh tề khiến ai nấy đều tuân theo lẽ phải...". Thần thấy rằng quả là Hoàng thượng hiểu sâu sắc cương lĩnh việc trị nước cho nên có lời ngọc dụ rành rọt như thế.

Thần thiết nghĩ bậc Thánh nhân thống ngự thần dân há lại không có đạo vậy thay ! Bởi lẽ đông tây gọi là "Quảng", nam bắc gọi là "Luân" (đều nghĩa là "rộng" cả - ND). Ðất nước rộng bao la như thế, sinh dân như muôn cây hợp lại thành rừng, muôn họ đông đúc. Người giỏi cai trị hẳn phải có kỷ cương, pháp độ, quán xuyến chỉnh tề khiến cho dân không sinh ra thói ngỗ ngược, chống đối, mà phải tuân theo cái lý đương nhiên. Ðường lối đó không có gì uẩn khúc cả. Cúi xem kế sách rằng : "Bề rộng của bốn biển, sự đông đúc của muôn dân, người giỏi việc trị nước biết quán xuyến mọi mặt chỉnh tề, khiến ai nấy đều tuân theo lẽ phải, có hợp với lời nói và ý của tiên nho không ?".

Thần cúi đầu đọc chế sách rằng :"Chỗ bắt đầu của Lý, chỗ khởiđầu của Số ấy", thần thấy rằng Bệ hạ hiểu sâu sắc đường lối trị nước cho nên có lời hỏi chu tất như vậy. Thần xin được giãi bầy : Khi hỗn mang, chưa phân chia, thì Lý đã ngụ ở trong Khí. Khi đã phân chia Thái cực thì muôn vàn hiện tượng là ở như Lư(o)ng nghi, nguyên là một gốc vậy. Lý ấy từ đó mà khởi phát và dẫn tới muôn hình vạn trạng khác nhau và cái Số cũng từ đó mà khởi phát theo. Sự khởi phát của Lý, Số mờ mịt, diêu mang (4) khó đo dò được. Nó tế vi khó mà thấy được. Cái lớn, cái nhỏ không nằm ngoài quy luật đó. Cái có trước, cái có sau, cái tách ra, cái chia ra chưa thể biết chúng từ đâu đến. Song nếu đọc "Nội thiên" trong sách Hoàng Cực (5) thì có thể thấy được.

Lão Tử viết 81 chương Ðạo Ðức Kinh, các chương "Kiệm vũ", "Hồng đức", "Cốc thần"... đại để lấy "thanh hư" làm tôn chỉ. Tám bộ Pháp tạng của họ Thích gồm hơn 1000 cuốn, như các bộ Kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa... đại để lấy thuyết "Hư vô" là chính. Học thuyết của hai nhà đó gần với Lý (6) vậy. Song sự thu liễm mầu nhiệm chỉ thiết cho một thân mình, sao có ích cho việc trị nước ? Lấy sự siêu thoát hình khí, chỉ làm tốt cho riêng thuyết mình thì sao có thể cứu cho mọi người được ? Chẳng qua họ cho cái "hình", cái "danh" là không có thực. Trói buộc, câu nệ vào Âm Dương đều là cái học của dị đoan cả, há có thể tìm được cương kỷ cho muôn vật ư ?

Bậc Thánh nhân quan sát thiên thời, gây dựng trên của cải của đất đai khiến cho người ta đều thuận với thói quen ở trên cao hay dưới thấp, yên ổn ở nơi trên cạn hay dưới nước. Ví như loài ở rừng núi không sống nơi sông nước, loại ở đầm ao không sống trên cao nguyên, điều ấy vốn là thuận theo đạo (quy luật) của nó, song không dừng ở đó. Ví như trai gái khi dựng vợ gả chồng ắt cần phải xứng với tuổi của nhau. Lại nói về những người ở rừng núi thì không bắt người phải đem cá và ba ba làm lễ ; những người ở sông nước thì không bắt người ta đem lợn cỏ (7), hươu nai, làm lễ. Cái để duy trì nhân tình, bảo vệ hòa hợp trên dưới đều có thể suy ra từ đó vậy.

Ðạo trị thiên hạ của bậc nhân quân, chế định phép nước, chỉ huy quyền hạn của bách quan, phương hướng bảo hộ muôn dân xử lý sao cho quân bình là điều cực kỳ to lớn cho nên người điều hành công việc thiên hạ há không cho đó là điều trọng yếu ư ? Cái gốc lớn của thiên hạ ở chỗ tình người ly hay hợp. Nếu tình đã ly tán thì dù tình thân trong một gia đình cũng không thể gò ép được. Sự đồng tình thành một khối thì dù sự xa nhau trong bốn bể cũng chẳng dễ gì lung lạc được. Cho nên Thánh nhân nắm vững lòng người, duy trì thế cố làm cho cái nghĩa khắp thiên hạ liên lạc, thân cận với nhau, có thể bỏ hết được cái thói tranh giành ngỗ ngược, làm cho thiên hạ là một nhà, cả nước là một người. Ðiều đó phải tuyệt đối không vì ý riêng của thiểu số mà làm càn được. Cũng không phải nghiên cứu thất tình (8) của con người, tiết chế không cho bột phát càn d(o). Cho nên việc thi hành nền trị giáo phải quan tâm đến giáo dục thất tình. Theo cái nghĩa của nó là chuộng lòng nhân từ, nhường nhịn, bỏ sự tranh giành, cướp đoạt, khiến mọi người đi vào nền nếp. Ôi, Lễ ấy há chẳng phải thấy rõ cái lý do đó mà xây dựng ư ?

Ðạo "xử kỷ tiếp vật" (9) của người quân tử không nói đến điều mà bề trên ghét bỏ thì cũng chớ nói cái điều mà bề dưới ghét bỏ. Hết lòng phụng sự bề trên sẽ dẫn tới bên tả, bên hữu, việc trước, việc sau, không ai không làm theo, không ai không cùng một lòng suy nghiệm để lường biết sự vật, khiến cho trên dưới bốn bề đều quân bình ngay thẳng, người người đều đúng vị trí, trách nhiệm của mình, thì thiên hạ sẽ yên bình. Ðó tức là đạo "quy củ" của sách Trung Dung, Ðại Học vậy.

Thấy chỗ thẳng chỗ cong của cây gỗ để bàn về nhân vật Trần Thiệp ở Sơn đông, Thái sử công (10) suy việc ấy viết thành lời. Cái lý ấy khá thông vậy. Ðạo của vua Nghiêu, vua Thuấn, phép tắc của vua Văn, vua Võ sở dĩ thi hành ở quốc gia thiên hạ, há chẳng phải là pháp độ mẫu mực mà ai cũng thấy ư ? Ðến như địa vị cao thấp, sự thích nghi khi thăng, khi giáng, thứ tự trước sau, thì cái công hiệu của sự thay đổi đó là do bậc Thánh nhân sai khiến được sự vật (biết lợi dụng quy luật). Cái gốc ở chỗ hợp lý tự nhiên vậy. Kẻ sĩ đi du thuyết, trường hợp Tống Hình (11) được tin Tần, Sở xây dựng quân đội thì ông muốn đến gập vua các nước đó thuyết phục để bãi binh, dân chúng được nghỉ ngơi. Ôi, trong buổi nhiễu nhương thời Chiến quốc, việc chiếm đất chiếm thành, các nước chư hầu luôn động binh. Những kẻ sĩ du thuyết nào "hợp tung", "liên hoành" (12), đầu tư tiền bạc, mở rộng cửa để đón những kẻ tài năng, làm sao có kế hoạch để dập tắt chiến tranh được ? Những lời nói chân chính thật rất hiếm ! Nay xét thấy lời của Tống Hình với những người có lòng nhân ái quả là rất mong muốn. Thuyết đó chẳng qua muốn nói về thế lực, sự thế, mà không tiện trần thuật (13). Khi mà nhân nghĩa là cơ sở lãnh đạo dân chúng, thì đó là đầu mối của ông vua mở ra cái công đức của một thời. Nhưng cũng là cái tệ của sự ôm ấp riêng tư, muốn chia ra hai nước mà cái công làm cho dân được nghỉ ngơi thì cũng chẳng đủ đền bù cái mất. Ðó là sự thiếu lòng tin của dân chúng vậy.

Mạnh Tử, trong một lần gập g(o) (với Lương Huệ Vương - ND), với danh hiệu "nhân nghĩã" đệ trình ý kiến với ông ta cũng không được chấp nhận. Cho nên (tốt nhất) là phải phòng bị nghiêm mật, sâu xa. Ðiều cốt yếu là nhổ tận gốc, vít tận nguồn vậy. Với tình hình (đất nước) hiện nay còn đạo lý nào hơn thế nữa ?

Khảo cứu các quẻ Thúy, quẻ Hoán trong Kinh Dịch đều nói rằng :"Ông vua đi tới đâu là được đón tiếp long trọng". Xét ra hai quẻ trên đều là "thể" của hai quẻ Hằng và Cấn vậy. Bậc Thánh nhân căn cứ vào đó làm ra thoán từ (14). Một là muốn cho nhân dân được đoàn tụ, dựng hành cung cho vững vàng thì lòng người quy về một mối. Sự ly tán của dân chúng, nhờ việc dựng hành cung. Ðó là thuật chiêu huề (vời gọi dẫn dắt) tốt nhất đối với những kẻ vốn du đãng. Cái ý chỉ đó cũng tương đồng (với thời xưa) vậy. Song cái điều cần nhất là bậc Thánh nhân cũng không nên hiểu chỉ có như thế, bởi lẽ quẻ này có cái "tượng"(15) như thế nên nói cái nghĩa như thế.

Ôi, nếu như nói về việc tổng nhiếp nắm vững lòng người, làm cho tư tưởng, ý chí dân chúng kiên định thì có nhiều đạo lý, há chỉ có một mà thôi đâu ! Ý chỉ của tiên nho, của kinh Phật có chỗ gần từ gia đình mà nói, có chỗ do nhân dân tự cảm phát mà nói, thì cái cốt yếu cũng quy về sự tề chỉnh vậy. Ở mấy chương trên chưa đề cập, ý tứ cũng là theo tình tiết, thứ tự mà nói vậy. Lấy cái "dụng" của Số trong sách Hồng Phạm về học thuyết Ngũ hành (16) chỉ một phạm trù cũng sẽ phát sinh nhiều cái "dụng" khác nhau.

Bậc nhân quân hiểu hết được sự biến hóa của Ðạo và quản nhiếp bốn mùa. Về phạm trù "Hoàng cực" thì nhiều lý luận tự nó đã đầy đủ cả. Bậc nhân quân hiểu được tiêu chuẩn về địa vị chí cực mà tổng nhiếp muôn loài, thì cái Lý đó vốn là tương đồng. Các Số thừa tiếp nhau trong vũ trụ, nghiên cứu ở Số 50 (17). Thái cực chia ra "động" và "tĩnh", hình thành Lư(o)ng nghi, vốn có chỗ không đồng nhất tức là sự khởi nguyên của Ngũ hành mà "Hoàng cực" là bao trùm, thì có thể hiểu được cái lý đó cũng như thế. Lấy cách Kiến Chính (dựng tháng đầu năm) thời Tam Ðại (Hạ, Thương, Chu) mà nói thì nhà Chu dùng lịch Kiến Tý làm tháng đầu năm, nửa đêm là Sóc ; nhà Thương dùng Kiến Sửu làm tháng đầu năm, lúc bình minh là Sóc. Lịch thời Tam Ðại đều có chỗ không giống nhau. Song Trời bắt đầu mở ở hội Tý, Ðất mở ở hội Sửu, hai đời (Thương, Chu - ND) dẫu lấy ở Thiên thống và Ðịa thống song chưa phù hợp ở thời điểm trung khí phát sinh, chỉ ở Dần muôn vật mới bắt đầu khai triển, không như ở Tý, Sửu khí dương còn quá ít. Cho nên Chính Sóc của nhà Hạ (18) hợp thời với Nhân thống, có thể thấy chính lệnh của nhà Hạ ưu việt hơn Thương, Chu. Về sau, khoảng năm Kiến hưng nhà Hậu Hán, Ngụy Tào tự thay đổi Chính Sóc, lấy Sửu làm lịch Kiến Tý nhà Chu làm tháng giêng (19) ; đời Ðường Trung Tông, Vũ hậu lại đổi đùng theo lịch Kiến Tý nhà Chu làm tháng giêng. Những năm Thượng nguyên (Thượng nguyên, Trung nguyên, Hạ nguyên, mỗi nguyên là 60 năm - ND) đời Túc Tông đổi Chính Sóc Kiến Tý làm tháng giêng, đó đều là bị mê hoặc bởi những tà ngôn, về ý riêng trùm lên tất cả mà càn d(o) thay đổi như thế. Xem như sự thay đổi Chính Sóc của ba vị vua đó không thể nào vượt qua cái mốc đầu năm mà bèn quay lại theo ngày Kiến (ý nói Kiến Dần - ND) mà người xưa đã đặt ra. Ðủ biết không dễ gì thay đổi được trong cái quy luật thường hằng vậy !

"Công năng của Ðức trị tính chất giống nhau. Bọn quan lại tài giỏi, mưu trí, những người có tên tuổi về văn chương, học thuật, các bậc vương giả tùy theo thời đại đều quý chuộng họ. Thể chế mỗi thời, sự cai trị có giỏi, có kém...", tình hình ấy có thể biết ngay được. Ôi, việc thi hành được Ðạo lớn thì thiên hạ là của chung. Việc tuyển lựa người hiền năng, nói có người tin theo, hòa thuận trên dưới, đã thi hành Ðức hóa, sự phòng ngừa không đặt ra, tình ý đã tự thông suốt với nhau, không sinh ra tệ cơ sảo, dối trá, không mảy may sinh ra thói lấn lướt, khuynh loát nhau. Bởi lẽ, sau khi phong khí đã dần dần mở ra, thế vận dần bước vào thịnh vượng, lòng người sẽ chuộng sự thuần hậu. "Tự nhiên nhi nhiên" vốn chẳng phải là sự dụng công của Thánh nhân mà dẫn đến tình hình đó.

Ôi, từ khi phong khí đã mở mà cũng chẳng thấy trong sáng như thời Tam Ðại, cảnh tượng chí đức thời Tiểu khang (20) không thể thực hiện trở lại nữa, đó là thời Xuân Thu. Lại thấy cảnh tượng chém giết nhau, tranh giành, cướp đoạt lẫn nhau, không trở lại cảnh Ðại Ðồng thịnh trị thời Ngũ Ðế (21). Ðức Không Tử khi xem lễ Xạ cảm thán mà than thở (22). Bởi lẽ, phải than thở vì nước Lỗ khi ấy đã dối trá, dân tục đã bạc bẽo, sự cúng tế chỉ làm cho qua chuyện. Có chăng chỉ còn chút tình thân ái với nhau mà thôi. Cứ xem như câu hỏi có thể thấy sự nghĩ suy của Thánh nhân muốn trở lại phong tục thời cổ mà chẳng thể được, thế thì mong chi ở nước Lỗ (quê hương của Khổng Tử - ND) !

Thời Tống Nhân Tông, quan lại thì nhiều mà pháp chế không mạnh, kỷ cương bị xâm phạm, thiếu sót. Bên trong triều đình đến ngoài dân dã đã phần lớn không chặt chẽ, công việc xây dựng đất nước không chấn hưng được. Về cuối đời, cái tệ càng gia tăng, dồn chứa lại chẳng phải một ngày mà triều Thần Tông, Kính Tông thi hành các điều lệ, pháp chế rất nghiêm khắc. Ðó là cách dùng Trí để cứu vãn tình thế, cứu vớt dân chúng, cũng là mong muốn sao cho dân chúng nhất trí với triều đình vậy, mà Tô Ðông Pha (23), người chỉ ra điều đó là sự lừa dối vậy. Vậy thì người mong muốn đạt được hiệu quả (trong việc cai trị) là cái gì ? Vì thế mà hỏi cách làm chính trị. "Làm chính trị giống như chơi đàn cầm, đàn sắt, có dây chẳng dùng đến" mà cứ phải có dây ấy. Nếu là người không biết chơi đàn cầm, đàn sắt, hẳn là vứt bỏ ngay. Cho nên phương pháp làm chính trị cũng từa tựa như thế cả. Há có thể bảo rằng thuyết đó có thể vận dụng được chăng ? Song cái tệ của cựu pháp, dù là ở thời điểm này, cũng nên thay đổi mà thi hành. Tất nhiên có chỗ chỉ là tương đối, hẳn có chỗ là cần thiết mà không thể coi nhẹ sự cải biến vậy.

"Quan lại thì đông mà không chấn hưng được" thời Nhân tố đã mất sự bền vững rồi. Song việc duy trì chính pháp phải rất khoan dung, việc dùng người phải có thứ tự. Việc dấu diếm, bao che những sai lầm trong công vụ, với cựu pháp chưa từng có sự thay đổi nào đáng kể. Công việc hành chính thì tuồng như trốn tránh, lười biếng, mà khi thi hành thì lại là những kẻ tàn bạo, hà khắc. Về hình pháp tựa như buông lỏng mà quyết định tù ngục lại nhiều. Trong 42 năm, những người làm việc ở cơ quan Bình doãn sở dĩ xây dựng được phong tục làm cho con người thuần hậu, người bình nghị không xét tới tình hình ấy mà chỉ thấy những khuyết điểm nhỏ những năm về cuối, bèn muốn hẹp hòi quét sạch những định lệ cũ. Những tính toán về tài chính liền đẻ ra trăm mối. Ðưa những người nhanh nhẹn, dũng cảm để mưu đạt được hiệu quả nhanh chóng. Rút cuộc những mối tệ chưa thể cải cách được mà trở thành lề thói trì trệ, điều đó há có thể thích nghi được chăng ? Tô Ðông Pha đã nhìn nhận ra tình hình và cực lực vạch ra sự sai trái đó mà điều sở nguyện của ông cũng muốn thu phục nhân tâm, làm cho phong tục thuần hậu, giữ gìn được kỷ cương, kéo dài một mạch nhân hậu của nhà Tống đến vô cùng vậy. Cũng có thể lấy sự việc ấy của Tô Ðông Pha mà bàn tới các sự kiện khác.

Về con người Quản Di Ngô, lòng trung của ông ta có thể cố kết trăm họ, lễ nghĩa có thể làm khuôn phép cho bốn phương.Tài năng trị nước, xử lý công việc triều chính của Quản Di Ngô đến như Bão Thúc Nha (24) cũng phải khen ngợi. Cái gọi là "thuật" của Tô Tần (25) cũng giống Thương Ưởng (26) mà lời lẽ thì chẳng khác Hàn Phi (27), còn như cách làm chính trị của Quản Tử. Ðại để là thẩm định việc khinh hay trọng, quyết định quyền hành, quyền hạn, hết lòng hết sức làm cho đất nước giầu mạnh, hoàn bị quân đội để ứng phó với địa phương nào không chịu thuần phục. Biện pháp chính của ông là sự thi hành ráo riết, bỏ qua sự khoan thứ. Sử sách chỉ ghi chép công trạng của ông ta nhưng không hợp với vương đạo. Ðó là chính sách ấn định số cư dân, những công việc dân phải hoàn thành ; tầng lớp nông, công, thương không được hưởng những quy thức của kẻ sĩ, không được ở lẫn lộn với kẻ sĩ. Sự khu trừ rạch ròi trong các làng xã khá nặng nề. Ðó cũng là kiểu trí xảo riêng tư, lấy số ít áp đặt số đông, không phải là cái Ðạo của Ðại Học (28) vậy. Người thời sau so sánh với Thương Ưởng, Hàn Phi cũng thấy cái học thuật của họ giống nhau, cùng một loại, đều là quá đáng cả.

"Thâu tóm được việc khinh việc trọng, chế định phép tắc bên trong bên ngoài, người bàn việc nướckhen là kế sách thần thánh, chả bao lâu cũng bị rối bời và thay đổi". 130 năm vô sự há có thể nói, bảo vệ giữ gìn được nền bình trị tự nó có sự đa đoan mà chẳng chuyên dựa vào phép tắc vậy thay.

Trang Chu viết Nam Hoa Kinh có chương đầu "Tề vật luận" (29), ý muốn muôn vật trong thiên hạ bất kể là vuông hay tròn, dầy hay mỏng, lớn hay nhỏ, sang hay hèn đều ngang bằng nhau như một. Ôi, vật không ngang bằng nhau, đó là cái tính của vật vậy, hoặc khác xa gấp mười, gấp trăm, hoặc nhiều hơn nữa, song đều xuất phát ở tự nhiên cùa Thiên lý. Con người ta cũng thế. Nay muốn gượng ép mà cho đồng nhau tất cả thì cái lý ấy là khiên cư(o)ng. Chẳng qua là một thứ tà thuyết tối tăm vậy. Xem như thời Ðằng văn công có Hứa Hành (30), ông này cũng muốn vua và bề tôi đều cầy ruộng lấy thóc gạo mà ăn. Theo cái đường lối tự làm mà ăn ấy, họ (tưởng rằng) trong chợ sẽ không có hai giá. Thực ra cách làm đó cũng sẽ dẫn tới sự dối trá trong thiên hạ. Nếu luận điểm này mà để ra cho các bậc đại hiền thì làm sao mà trị nước được ! Bậc Thánh nhân thời cổ lấy sự thuần hậu của Ngũ điển (ngũ luân) để giáo dục về mối quan hệ cha con, anh em, quân thần, chồng vợ, bạn bè, không cho trái phép tắc, phân biệt đúng sai. Với Ngũ lễ là để khen thưởng cho tân khách, quân đội, mà người ở cấp bậc thấp không có chuyện bất hợp tình hợp lý. Việc chế ra năm bậc trang phục là để ban cho người có đức hạnh. Ðặt ra năm bậc hình phạt là để trừng trị kẻ có tội. Ðiều đó có thể thấy ý nghĩa của sự chế tác của Thánh nhân. Nếu không hiểu Thiên tự là có phép, Thiên trật là có lễ, Thiên mệnh là có đức, Thiên thảo là có tội, bốn cái đó đều xuất phát từ cái gốc của Thiên Ðạo. Nếu bậc Thánh nhân không làm được đến nơi đến chốn thì chỉ là dựa vào người khác mà họ đã vứt bỏ Thiên lý đi rồi. Trời Ðất tương cảm nhờ ở Khí mà muôn vật sinh sôi tươi tốt. Bậc Thánh nhân có thể cảm hóa lòng người mà có nền hòa bình thịnh trị trong thiên hạ, đó là Lý tự nhiên vậy. Song cần phải nói rạch ròi thì một đằng lấy "lý", một đằng lấy "hình", vốn hai điều ấy có sự khác nhau. Hợp lại mà nói thì cũng có chỗ tương đồng. Thời xưa Thánh nhân chế định ra Lễ của sự tế tự, xây dựng đô ấp rõ ràng hợp cách trên dưới và bảo cho dân chúng phải hoàn thành. Khi nghiệp lớn đã thành, các vị bách thần đều theo thứ bậc mà ban cho lộc của thần. Từ khi thể chế của triều đình vững vàng rồi thì mong cho sự tốt đẹp được rộng khắp. Trong thời kỳ ấy tất thẩy một lòng. Với Trời Ðất đạt được cái đức tính thực, không nơi nào không chuẩn xác mà các nước chư hầu bên dưới làm trợ tế, việc nhỏ mọn như nhạc múa dùng lông chim trĩ đều tỏ vẻ hài hòa, yên vui, cũng là biểu thị lòng trung tín, nghiêm chỉnh.

"Thu những cái phóng ra, hợp những cái phân ly, đạo làm cho thiên hạ tốt đẹp..." không gì cốt yếu bằng như thế. Xem như lời của Lã thị (31) có thể thấy được. Ðến như cái hay trong Tần thệ (32) mà tình yêu xuất phát ở sự đồng khí, nó cũng không đủ tính quyết định thu phục nhân tâm. Vua Văn Vương nhà Chu dựng nước trên núi Kỳ sơn, thuận với lòng vua muốn cho đất nước thịnh trị, có Ðạo, ở dưới thuận với lòng của những người hiền, khiến cho đất nước thăng tiến. Sự khiêm nhường và tính nghiêm túc luôn được phát huy và do đó đã quy tụ được nhân tâm, cho nên vương nghiệp hanh thông. Hãy xem hào 4 của quẻ Thăng lấy thể ở quẻ Khôn ở vào dương vị, cho nên rất tốt rồi mà Chu Văn Vương còn lấy đó làm răn. Bởi lẽ vị trí của các địa thần ở hào 4 rất gần với hào 5 và 6, sợ rằng có lúc bề trên áp đặt bề dưới, hiềm khi không giữ được sự nhu thuận. Cho nên Thánh nhân đặt ra "tượng" như thế để răn dậy vậy. Thời Vũ Tông nhà Ðường, người nắm chức vụ Bình chương (33) là Lý Ðức Dụ, chiêu hồi được ba trấn U châu, Thành đức, Ngụy bác, tâu việc ấy lên vua, lại bảo ban tận nơi các quan lại cố gắng cần mẫn, sớm lập công danh, kết hợp với lời vua dậy bảo. Lòng khẩn khoản ấy hẳn phải chờ đợi họ tự lập được rồi mới có quan tước ban cho họ. Ðây là dẫn lời ghi chép về công việc tiết độ của Lý Ðức Dụ để rõ đạo lý : Khi kẻ sĩ đã tâm thành mà phạm sai lầm cũng cần phải cảnh cáo, kể cả các vị tướng của ba trấn ấy cũng nằm trong khuôn khổ kỷ luật đó. Ôi, bậc nhân quân lãnh đạo bề tôi, bề tôi có lỗi nhỏ thì dùng lời văn để khuyến cáo, nếu có lỗi lớn thì có sắc dụ cảnh cáo. Sắc dụ cảnh cáo là chuyện bất đắc dĩ. Ðến như việc dùng binh ban hành ủy lệnh cũng nhằm làm cho lòng người quy phục. Thời Túc Tông nhà Ðường có một số trấn ở hậu phương nhiều lần trái mệnh, vua cũng khoan dung cho họ. Mềm dẻo quá thì cái lỗi do sự buông lỏng, cứng rắn quá thì vội vã trong việc đánh dẹp, chưa hề dùng tới một lời cáo dụ nào. Nay Lý Ðức Dụ vận dụng tài lược kinh luân của ông, phủ dụ các phiên trấn làm cho ba trấn kia yên tĩnh, lòng người quy phục, không làm cho quân đội phải mệt nhọc, tổn hao ; làm cho hơn 30 châu ở đất Hà bắc đều quy phục triều đình. Vậy thì việc dùng lời văn khuyến cáo, sắc dụ để cảnh cáo nhằm nhiếp phuc lòng người há chẳng tốt hơn việc dùng quân đội để đánh dẹp ư ? Nếu như bọn họ trông gương người xưa thì không thay lòng đổi dạ, thuần nhất việc nghe nhìn sự vật, ổn định dân chí, bảo tồn được đạo Trung dung, cái lý do cũng ở đó vậy. Những việc chống đối ngu ngốc ở phiên trấn có thể nghiệm được sự di hóa vậy. Sự giáo hóa của các bậc Thánh nhân thời cổ là khi sự lo toan, cân nhắc đã chín muồi thì kiên trì thi hành. Trong quá trình đó chẳng ít sự đổi thay để làm thế nào thu phục nhân tâm. Việc cổ vũ thần dân cũng có thuật của nó. Khảo xét trong sách có chép việc Chu Công đánh quan Tam Giám (34), sau khi hợp mưu với mười quan đại phu rồi mới đem quân đi đánh dinh trại của Thành Vương ở phía đông. Thành Chu cũng đã họp bàn với quần thần cách đối phó cũng phải thua và chuyển dời đô ấp (35). Những việc đại loạn như thế há chẳng có thể suy nghiệm ư ?

Thần cúi đọc chế sách nói : "Nước Việt ta các triều đại chính thống kế thừa nhau, điều sở dĩ phòng ngưà, duy trì được vương nghiệp nhà nào có chế độ của nhà ấy, song cái công năng của việc trị nước thì có giỏi, có kém, niên đại có lâu có chóng, có phải do khí vận từng triều đại có chỗ không bằng nhau ư ? Hay là sự thi hành phép nước có chỗ được, chỗ không ? ". Ở đây thần ngửa trông Hoàng thượng hiểu sâu sắc những điều thi hành phép trị nước qua các triều đại, cho nên có lời hỏi ân cần như thế. Thần xin theo lời chỉ dẫn mà nói : Nguyên lai các đầu "ngao" (36) đã vững vàng mới chia tứ duy (37), có giới hạn núi sông, có cương vực khác nhau. Cùng với các triều Tống, Nguyên phương Bắc, các vua Ðinh, Lý, Trần nước Việt ta đều làm đế một phương. Vua Ðinh Tiên Hoàng dựng nước ở Hoa-lư, lập niên hiệu ; Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng-long, nơi trung tâm để cai trị ; vua Trần Thái Tông lên nối ngôi nhà Lý, định đô ở Phượng-thành, đó là ba triều đại chính thống kế tiếp nhau trị nước. Nhà Ðinh chế định các nghi chế văn võ, có tên gọi của Thập đạo quân, các ban đều có tước phẩm, trang phục có quy định mầu sắc. Nhà Lý thời Long Thụy trở đi có chiếu khuyến nông, thời Chương Thánh có định ngạch cho các quân sĩ, thời Thiên Thành san định Hình thư (sách Luật), thời Hội Phong có quy chế rõ ràng về thi cử, học tập, thành tích kiến lập quy mô có thể thấy rõ. Nhà Trần, ngay năm Kiến Trung (1225) thường làm theo như triều Lý, năm Nguyên Phong (1251) có định bậc trong phép thi cử, dựng Bình Doãn Ðường để xử các vụ kiện, giam ngục, đặt Bình Bạc Ty để giữ bốn thành, tu sửa các điển chương, mặt nào cũng đầy đủ. Ðiều sở dĩ phòng ngừa, duy trì được vương nghiệp, không nhà nào không có chế độ của nhà ấy.

Song nhà Lý thì trong nước cường thịnh, tứ di (38) đều thuận theo, nhà Trần thì lòng dân mừng vui, yêu mến, trăm họ giầu có, sự cường thịnh của nước Nam chưa có thời nào vượt được. Nhà Ðinh thì giặc Chiêm thành quấy nhiễu phương Nam, quân Tống lăm le xâm lược phía Bắc, sao không suy yếu được ? Nhà Lý truyền được tám đời, cộng 274 năm ; nhà Trần truyền được hai mươi niên hiệu, cộng 180 năm. Triều đại trước, sự truyền ngôi lâu dài không vượt qua thời gian đó mà nhà Ðinh chỉ truyền được hai đời, được có 12 năm, sao lại ngắn vậy ? Há do khí vận không bằng nhau ư ? Vấn đề là : Nhà Ðinh khi mới dựng nước, chính thống đang được mở mang, sự quyến cố của mệnh Trời có chừng ấy, sự mến mộ của lòng dân mới đang gây dựng. Hai triều Lý, Trần được thừa hưởng đặc biệt thành quả đã đạt được ở triều Ðinh, điều ấy há có thể quy về khí vận vậy.

"Sự thi hành phép nước có chỗ được, có chỗ không" ý đó thế nào ? Các triều đại ấy chính về lễ nghĩa, nền phong hóa của dân chúng thuần hậu, danh phận của mỗi người được nghiêm cách, quốc pháp sáng rõ, coi trọng và ngăn ngừa quân đội ở kinh sư, không để xẩy ra sự phản loạn ; phong các tôn tử ở các lộ, không có cái lo làm lung lay cái gốc ; chọn kẻ sĩ hẳn là phải qua thi cử, nhân tài đều được bổ nhiệm, cất nhắc ; phân chia văn quan và võ quan được nắm quyền hành nhất định để đề phòng ; ngăn ngừa tứ di mà không xem thường việc gây ra chuyện binh đao ; lấy pháp lệnh để ràng buộc các tướng thần, không để họ chuyên vào việc binh chính. Quy mô dựng nước của thời đại Lý, Trần sở dĩ phòng ngừa, duy trì được như thế là do đạt được một nền an ninh cao độ, không đạt được công lao trí trị mà hưởng lâu dài như thế sao ? Còn như nhà Ðinh thì cùng lập năm hậu phi mà đạo thường có nhiều sai sót ; trường học chưa xây dựng, buông xuôi việc giáo dục ; quân Thập đạo quyền lớn hơn các đại thần ; tối tăm trong phương pháp ứng xử khi thường cũng như khi biến ; đắm say trong áo quần sang trọng, coi nhẹ sự răn đe, phòng ngừa những thói tệ. Ðến nỗi ở chốn nghiêm cẩn cũng xẩy ra những chuyện đấu đá, làm cho lòng kẻ gian có chỗ nhòm ngó, bởi thế mà sinh ra sự quá nghiêm khắc về hình ngục làm cho lòng người lià tán khó mà bó bện lại. Thế thì giữ sao được đất nước, ở ngôi cho lâu dài được ? Cho nên "việc trị nước có giỏi, có kém, niên đại có lâu có chóng khác nhau" là do ở nơi thực hành có được, có mất, không giống nhau vậy.

Thần cúi đọc chế sách rằng :"Trẫm nay nối nghiệp theo đạo của Tiên vương, trị lý sáng suốt thực nhờ ở Ðại Nguyên soái nắm chắc chính sự trong nước, coi trọng quân đội, làm sáng vương nghiệp, chỉnh đốn kiền khôn, rộng mở nền trị giáo, cùng với các vị thân huân đại thần...". Với điều này thần ngửa trông Hoàng thượng hiểu sâu sắc đường lối trị nước, cải cách thói tệ, đề ra phương pháp trí trị tạm lấy làm đúng mà hỏi nơi bọn thần. Thần kính đọc đi, đọc lại vài ba lần, xiết bao hân hạnh.

Thần kính thưa : Hoàng đế Bệ hạ nhờ đạo trung chính, cường kiện của Trời, giữ vững vận mệnh thái hòa, hanh thông, thịnh vượng, bình yên, nối noi truyền thống lớn lao của các bậc Tiên vương, làm rạng r(o) nghiệp lớn, hằng suy nghĩ về đạo trị nước chẳng phải do công sức của một người mà thành công được, ắt phải nhờ vào công lao kỳ diệu của Hoàng thượng đồng thời nhờ vào công sức"Ðại Nguyên soái nắm vững chính sự trong nước, coi trọng quân đội, nhờ vào lòng nhân hậu để làm sáng vương nghiệp, thỏa chí các anh hùng hào kiệt, người trợ lý công việc thiên hạ, chỉnh đốn kiền khôn, chấn hưng, mở rộng nền trị giáo cùng với các vị thân huân đại thần, bách quan văn võ đồng lòng sửa sang", giúp rập những điều có quan hệ với đạo trị nước, không việc gì không thi hành. Vốn ưa chuộng phong cách điềm tĩnh thì, phàm những chuyện bầy đặt, xin xỏ vượt cấp, phải truy thu có bằng cớ, chứng tích. Muốn cải cách tệ gian dối thì, phàm những việc xin xỏ, hối lộ, phải cực lực cấm đoán không còn nơi ẩn nấp. Ðặt hòm thư góp ý với lời lẽ khoan dung. Phàm ai có những lời trần tình về chính trị, thời sự đều được viết thành sớ biểu đạt lên trên. Ðặt một chuông nhỏ báo hiệu, có người chịu trách nhiệm lắng nghe ý kiến. Phàm có người, có việc bị oan uổng, bị đối xử tàn tệ, đều được giải quyết công bằng, sáng suốt. Nếu làm được như thế thì đạo đức được sáng tỏ, ngăn chặn được sai trái, thu nhận rộng rãi và nghe những ý kiến góp bàn. Chỉ có nghe đạo trung chính làm trung tâm, lấy sự công bằng của Hoàng cực (39) làm phép tắc mới có thể ngăn chặn cửa ngõ của sự cong queo, mở ra con đường thẳng ngay cho mọi người vậy. Song, hoặc là con đường bôn xu, cửa quyền, hoặc nhòm ngó cửa công hầu, bồ đào so với hạt châu, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ ! Vốn không có tài cán gì mà chỉ trông chờ ở sự giúp đ(o) của người khác, những thói đó vẫn còn nhiều. Ðem vàng lụa để mua chuộng, hấp dẫn người ta, đều là cái tệ của sự xin xỏ, cầu cạnh Những đầu mối ấy chưa được ngăn chặn, nếu tình trạng cứ mãi như thế. Vậy thì trên thế nào, dưới thế vậy. Bởi lẽ hình ngay thì bóng mới thẳng. Bên trên là nguồn nước, bên dưới là dòng chẩy, nguồn trong thì nước sạch. Bậc tiên nho Phạm Trọng Yêm (40) từng phát biểu như vậy, quả là một định luận không thay đổi được. Ngay buổi đầu không phải không nghiên cứu lời nói ấy mà nay hiệu quả chưa thu được ! Chớ cho rằng hiệu suất cải hóa của sự ngay thẳng chưa thấm vào thực tế xã hội nên còn tình trạng như thế.

Thần được nghe bậc Thánh nhân thời cổ trước hết khen sự cần mẫn, làm sáng tỏ đức lớn của vua Vũ Thang (41) làm cho nơi nơi ngay thẳng. Ban đầu không vì hàng hóa rẻ mà cám dỗ người ta. Thực tế rất nghiêm cẩn là phải gần gũi với dân chúng thì của cải mới sinh sôi được. Từ đó suy ra để cảnh giới những người có địa vị, không như thế thì lời răn đám bề tôi ở dưới về "Tam phong, thập khiên" (42) cứ tiếp diễn mãi, quân đội không thể hùng mạnh lên được. Duy lấy đức làm hình phạt với các nước chư hầu chứ không dùng uy lực để người ta sợ. Trong thực tế, duy trì người ta bằng sự biết kính trọng và tinh thần nghĩa khí. Cho nên, suy ra vấn đề chức năng của luật pháp ở như các cơ quan thừa hành thì "tám phép tắc, sáu mưu kế" (43) sẽ được phát huy và tuân thủ. Ðó chính là phương thức vận dụng của các bậc thánh vương vậy. Nay sự thi hành chính sự, cái gốc là ở công bằng, ngăn chặn bọn gian manh, mở ra con đường chân chính song cái nhược điểm tồn tại là : Sự cải lương chưa đến nơi đến chốn, phép tắc chưa triệt để thi hành, nạn hối lộ vẫn còn là lý do như thế. Trừng phạt bọn quan lại tồi tệ mà chúng vẫn còn nhiều bởi bọn chúng lọt lưới ! Việc lớn, việc nhỏ bọn chúng đều lợi dụng để thu nhập. Thuật điều lý sửa chữa cầu cống đều chọn người của bộ Lại, việc tuyển lựa triều thần phải bảo đảm cho họ nhận đúng trách nhiệm, chức trách. Nghiêm cấm không cho ngựa quen theo đường cũ và cần họ tự nguyện phân loại. Những oan uổng trong xếp loại quân công cần phải kiểm tra, bàn bạc một cách thẳng thắn. Những người muốn xin trở lại làm việc thì phục nguyên chức cho họ. Như thế mới ngăn chặn được ý muốn cầu cạnh, xin xỏ. Thần sợ rằng thói quen đã thành nếp ; áo xiêm mũ mãng nắm luật pháp công nhiên nhận hối lộ, điềm nhiên coi là chuyện bình thường ; cái tệ nạn đút lót để làm quan ngồi ăn lộc rút cuộc khó chấm dứt được. Trước mắt, quét sạch thói xấu quá lâu dài ấy, khiến thần dân một mực trở lại ngay thẳng. Với bề trên, then chốt quan trọng của vấn đề ở chỗ nào ? Thực tế, có thể quét sạch thói tệ cũ, cần nghiêm túc chấn chỉnh kỷ cương. Ðình chỉ việc bổ nhiệm những kẻ tham lam tiền của ; giám sát những viên quan to giầu có, tàng chứa của cải ; phanh phui những điều cấm kỵ dựa vào thế lực bên trong nhằm ngăn chặn con đường tắt của tệ chạy chọt, bôn xu. Coi trọng sự tuyển lựa quan lại, thận trọng, đường hoàng nhằm chặn đứng con đường hãnh tiến đang lan tràn. Quân đội phải hết sức thi hành nhiệm vụ, kẻ nào tự xếp loại chiến công mà huênh hoang, càn d(o) thì phế truất. Theo định kỳ cần giải quyết dứt điểm các vụ tố tụng, người nào có tư ý mua chuộc, rỉ tai trong các vụ xét xử phải trừng phạt. Chọn người công bằng, liêm chính như Mao Giới, việc tiến cử, tuyển lựa có phép tắc, khiến cho bọn quan lại yếu kém rõ ra là một cỗ xe nát vô tích sự. Chọn người thanh liêm, cần kiệm như Dương Quán. Những công việc cơ yếu của sứ ty cử người cấp phó làm. Giảm bớt số người đánh xe ngựa, bớt tiệc tùng, ca nhạc. Cái gốc chính đã ngay thẳng thì phong tục tự nó sẽ thuần hậu. Triều đình ngay thẳng thì đất nước thịnh trị. Làm bề tôi, ai nấy đều gột rửa tư tưởng, nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp. Phải hiểu biết thế nào là tiết tháo cần phải giữ gìn. Không háo danh, phải hiểu sự liêm khiết là niềm vui ; không được trốn tránh tội lỗi. Từ quan to đến quan nhỏ, từ chốn triều đình cho đến các địa phương xa gần không ai không có trách nhiệm ngăn chặn thói tư tình, dâm bôn. Những người có quyền hành to lớn làm được cái việc chí chính, ngay thẳng rất mực thì then chốt của vấn đề há chẳng ở đó sao ?

Thần lại nghe : Việc trí trị từ xưa, kỷ cương phải luôn luôn được nêu cao, luật pháp phải ban bố rõ ràng. Việc truyền đạt luật pháp, kỷ cương phải thật kỹ càng, đầy đủ. Người làm quan phải nói được, làm được. Bên trong thì bách quan phải tuân thủ, bên ngoài phải chấp hành nghiêm chỉnh, không được phạm sai sót nhỏ kẻo dễ thành thói quen trái lệnh. Khi mọi nơi đã đồng nhất phong khí, cả nước cùng một tập quán tốt sẽ xuất hiện sự tốt đẹp. Ngày nay công việc triều chính ủy nhiệm cho Tể tướng chịu trách nhiệm thi hành, việc giảm chính biên chế, thi hành pháp lệnh nghiêm túc, chế định các điều lệ về tố tụng, quy định rõ chức trách của Bách ty, phân cấp việc điều tra, xét xử, bắt giam bọn phi pháp, trừng trị bọn trộm cướp, nghiêm cấm bọn gian phi. Phải thông sức các điều luật và chức trách thi hành không nơi nào không thấu suốt. Nhưng trong khi thi hành việc lớn, việc nhỏ, hoặc bị tổn thất do buông lỏng, hoặc do lười biếng, trốn tránh gây ra. Quân đội đông mà chưa được huấn luyện ; quỹ có mà tiền không đủ tiêu dùng ; đơn kiện cáo đầy rẫy ở công đường, giấy tờ bề bộn trên bàn, tủ. Không dẹp được thói điêu toa, khó trừ được mối tệ. Vậy thì những chính sách thi hành chưa thể nhất nhất trúng lý được.

Những ý kiến trên là lòng mong mỏi việc trị nước phải như thế. Tình hình bức thiết mà không thể thành công được chính là ở đó. Kẻ bề tôi ngu muội này chưa giữ một chức vụ nào nhưng tự coi như người đang giữ chức trách của cơ quan. Thần trộm xem xét là bề tôi hiện nay của triều đình nhận thấy vấn đề then chốt của việc giảm chính, đề bạt vẫn là phải tuyển chọn rất kỹ lư(o)ng những con người khảng khái, dám lãnh trách nhiệm, coi việc nước là việc của mình. Có những viên quan vì nể nang, chiếu cố cảm tình nhiều, năng lực đảm đương thì ít cũng đề bạt để tính kế cho việc vườn ruộng, với việc nước thì lơ mơ, lười suy nghĩ, mưu cho cá nhân và gia đình thì tha thiết ngấm ngầm. Cùng lớp với họ dẫu có kẻ cũng biết những lời dậy chí tình trong Kinh Thư nhưng với chức nghiệp thì hờ hững và sinh ra tệ lười biếng, nghĩ đến chức trách khi đang tại chức, dù có hiểu rõ sách vở song khi làm việc vẫn sinh ra tệ làm theo cảm tình, quan sát thái độ của nhau để lựa chiều, vì thế mà ngày nay thiên hạ sinh ra lắm chuyện tệ hại, ngoài biên thùy thì bọn hùm beo nhòm ngó, trong triều đường thì đám nhạn hồng kêu ơn (44). Thế thì nơi nào có thể tháo g(o) tình trạng chống đối việc thực hiện chương trình hành động ? Nơi nào có thể dẹp yên tình trạng vờ cáo bệnh không dự bàn việc triều chính ? Nơi nào có thể chịu đựng được sự thối tha của thói làm trái, bêu xấu nhau một cách quá đáng ? Không cải cách những thói tệ ấy mà mong muốn việc chính sự được trúng lý, ổn thỏa, thiết nghĩ chưa từng thấy ở đâu có thể thực hiện được ! Ngày nay, nếu muốn chính sự gần gũi với dân chúng, chỉ có biện pháp làm cho nơi nơi thuần hậu, trong sạch. Thần thiết nghĩ làm được việc này chỉ ở chức trách của Tể tướng mà thôi. Cái gốc chính sự ở đâu ? Ở sự cân bằng trung chính. Muôn việc trong thiên hạ đều có quan hệ đến vai trò của Tể tướng, vua Cao Tông cử ông Thuyết, vua Thành vương cử ông Chu (45). Nhậm chức lâu hẳn phải có trách nhiệm mà hai ông này hẳn phải thực tâm mà phụng sự, hẳn phải ra sức làm cho mọi việc vào hàng vào lối. Thử coi các vị hiền tướng từ thời Hán, Ðường trở đi, họ có thể biết cách vận dụng khi co, khi duỗi, chỉ nhằm vào cái điều mong muốn sao cho thành công. Rồi sau đó mới nói đến chuyện vua được hưởng phúc, bề tôi được thơm lây. Yếu quyết lớn của một triều đình có đạo là việc có nhiều người tài giỏi, hiền triết giúp rập công việc thiên hạ. Sao lại không làm được việc ấy ?

Kế sách trước mắt là phải chuyên nhiệm, coi trọng quyền hạn, trách nhiệm, phải giành được thắng lợi, có bài bản về chức trách. Khuyến dụ họ vui vẻ, gắng sức làm việc đề ra một chính sách, một pháp lệnh, phải thúc đẩy nhau thi hành. Một câu, một chữ phải cùng nhau giảng giải, phân tích. Muốn quần thần kiên quyết, trung thành với việc công thì phải xét lời nói của họ trong lúc bàn bạc công việc, đánh giá sự thực hiện của họ hơn là qua lời tâu. Muốn chốn miếu đường trở lại phong thái vui vẻ, phấn khởi, khi ngự triều nghe công việc cai trị nên kết hợp sự cảnh báo trong lúc nói cười, bàn luận, cốt yếu họ thực tâm theo con đường chính trực mà làm việc, dẫn tới vua phải đối xử công bằng với mọi người. Lấy pháp chế củng cố đội ngũ quan liêu cho vững mạnh, ràng buộc các chư hầu, như thế quan lại ít mà tinh, nơi nơi trở nên thuận hòa, nền chính trị gần gũi với mọi người. Muôn dân thuận hòa, cả nước có phép tắc, đạo lý há có ngoài điều đó đâu !

Lại nói, từ nay lệ thu tô thuế cần quy định tỷ lệ chênh lệch để răn đe sự hà lạm trong công tác này. Tuyên dương lòng nhân từ, tập hợp, vỗ về dân chúng để cảnh giới bọn quan lại phiền nhiễu. Ban những điều cấm phải rõ ràng. Tuy nhiên, cấm pháp dù nghiêm mà cấp dưới không tuân thủ chính xác, người vâng mệnh trưng thu, trước là thu thuế, sau là nuôi dư(o)ng con em, nuôi dư(o)ng nhân dân, vậy mà cái cơ xảo của danh sắc, bọn thủ lệnh lại ra sức vơ vét của cải của dân chúng từ cái nhỏ nhoi nhất. Bọn chúng vứt bỏ sự bảo hộ của triều đình, nói nhăng cuội, viện dẫn là cần kíp, bức bách, khẩn cấp như lửa cháy. Thói tham lam là như thế đó !

Kià, lấy việc Quản Trọng giúp Tề Hoàn Công, giúp đắc lực Phù kiên là một nước nhỏ, có thể khiến cho mệnh lệnh ắt phải thi hành. Thậm chí đường đường một nước lớn mà chẳng độc lực được. Tại sao như thế ? Suy cứu cho kỹ thì lý do từng cho nước là mềm dẫn tới cái tệ đó, mà là ý riêng, lời tư ngôn vậy. Căn cứ vào đó thì đường lối trị nước của đế vương phải chăm lo việc trừ khử bọn gian tà, bạo ngược, quan tâm đến việc phóng thích kẻ vô tội. Cái cơ bản là ở lòng khoan dung, nhân từ. Những lời giáo huấn trong Luận Ngữ Mạnh Tử, hoặc nói khoan dung để được lòng dân chúng, hoặc nói phát ra chính lệnh là ban lòng nhân từ, chưa từng nói dùng đến bạo lực. Với Thôi Thực thì ông ta cho đó không thể là phép tắc trị nước, nên lấy "mồi béo bở" dụ dỗ người ta thực hiện đạo đức, lấy "thuốc đá" (46) làm hình phạt răn đe, và cho đó là lý luận không thay đổi.

Thần nghĩ rằng đại để việc làm chính sự ắt phải lấy lòng khoan dung làm gốc và đặc biệt nghiêm túc thực hiện những điều bất cập. Ðạo trị nước của bậc đế vương dẫn tới sự hoan nghênh và hòa khí của dân chúng là như thế. Những lời dậy trong Luận Ngữ, Mạnh Tử xây dựng nên trị giáo để lại cho đời là ở đó. Lý luận của Thôi Thực là sự phẫn khích nhất thời, mà lời nói đó thực không phải là lý luận chung cho muôn đời được, sao có thể giả thác vào đó ? Gốc của sự dẫn đến thói tệ hiện nay thực ra không có một lý luận nhất định nào, mà là chưa thích nghi giữa sự khoan dung và bạo lực. Hẵng xem mấy năm lại đây, cái gọi là "thưởng phạt" quả đúng với người có công, thành tích rõ ràng hay toàn là ý nghĩa khuếch trương ? Cái gọi là "điều cấm" quả là một trong phép cũ không thể thay đổi được ? Nếu như phép cũ ban bố rộng rãi cho quần chúng mà khen thưởng tràn lan, thì cũng sẽ bài xích tràn lan, xử phạt tràn lan, tha tội tràn lan.

Thực hiện phương pháp khen thưởng đúng đắn, thực tế, khuyến khích việc thiện, trừng trị gian ác thì không như thế được ! Cho nên bọn quan lại giảo hoạt lợi dụng việc khen thưởng, biến nó thành trò mua bán ở chốn miếu đường. Nếu như phải bàn, phải xét lại thì bọn gian đó đã ngấm ngầm đổi trắng thay đen mà hình phạt, luật lệ khi nặng, khi nhẹ không có cái gì làm chuẩn. Làm mất tính nghiêm túc, đó không thể gọi là lòng khoan dung của cổ nhân được. Cho nên chiếu chỉ, sắc lệnh thường ban bố mà vẫn im lìm như cũ. Tô thuế tuy có lệnh sức mà sự vi phạm vẫn như thế ! Cái mà Trịnh Tử Sản (47) gọi là mềm như nước để cho dân tin, đúng như thế. Nay muốn pháp lệnh đã ban bố chỉ có việc thi hành cũng cần châm chước giữa cái nghiêm khắc và khoan dung. Kẻ hạ thần ngu dốt cho rằng khoan dung quá trở nên phóng túng vốn không thể được, nghiêm khắc quá hóa ra hà khắc cũng không được. Nên theo lời dậy của Chu Tử đối đãi với người lương thiện nên khoan dung, xử kẻ cường bạo phải nghiêm khắc. Phàm thi hành một chính sách, một pháp lệnh phải có ý thành thực mà cảm hóa lòng tin của quần chúng, không lấy văn chương sáo rỗng lừa dối họ. Thi hành một hình phạt phải kiểm tra, kết luận đúng tội trạng, không thể theo ý cá nhân mà bỏ qua sự thật.

Việc hà lạm đã có những điều cấm nhưng vẫn có nơi không tuân thủ thì cần khiển trách nặng. Phế truất những phiền nhiễu đã có những điều cấm, thế mà những sai trái vẫn tăng, phải kiên quyết xử phạt thật nặng. Chỉ huy quân đội mà bắt lính làm việc riêng cho gia đình mình thì đình chỉ công tác. Những kẻ nhũng lạm thì đuổi khỏi cơ quan. Thi hành những chính sách trên phải cứng rắn như sắt đá, chấp hành mệnh lệnh trên phải chính xác như bốn mùa. Công bằng, vô tư như trời đất, có như thế mới có chỗ dựa để các cấp chính quyền tuân thủ. Mỗi hàng chiếu chỉ ban xuống đều nhanh chóng thừa hành. Công hiệu đó là then chốt kỳ diệu của sự kính nhường, hy vọng vãn hồi được mỹ tục, người người sẽ không tái phạm. Như thế há chẳng hợp với ý của cổ nhân và cũng là hợp với tình hình hiện nay sao ?

Thần lại nghe nói thời đại nhà Ngu, nhà Chu, soạn điển nhạc như ông Quỳ, tiếp thu ý kiến như ông Long (48). Tài nghệ như hai ông mà vui vẻ nhịn nhường nhau, người gia tể như Chu Thái Bảo (49) cố gắng vì việc nước, các vị ấy thiết tha lôi kéo các vị đại thần khác trong không khí hòa hảo rất mực vậy. Ngày nay, trong công việc bề bộn của chính phủ, trong không khí tất bật, lo toan của các quan lại vốn là có sự tuyển lựa kỹ từ trước song không có thể hiệp mưu làm cho công việc trôi chẩy, bỏ những vấn đề then chốt mà chỉ quan tâm đến tính thực dụng, không thể phân biệt được đâu là việc lớn, đâu là việc nhỏ. Nghĩ kế lôi kéo nhau, coi nhẹ việc đã bàn định, chỉ khéo lấy lời lẽ để mê hoặc. Công việc có bàn cách thi hành, Giáp lại thì có thể thành Ất chăng ? Rốt cuộc không có một lý luận nào cả, chẳng hiểu ở chốn miếu đường người ta sẽ trù tính ra sao vậy ?

Trong Kinh Thi khen "anh cả thổi sáo, em thứ thổi tiêu" (50), trong Kinh Lễ thì nói "đại thần gương mẫu, tiểu thần thanh liêm", ngày nay sao chưa thấy xuất hiện những phong thái ấy ? Tình hình này quy về vận hội ngày một sa sút, nhân tâm không như thời cổ, tức là nhân tâm thời Thượng cổ vậy. Nay cũng nhân tâm ấy sao lại khác ? Bề tôi bây giờ văn chương đầy bụng, coi việc thi thố kinh luân là sự nghiệp, đang chờ thời cơ để trở nên ông Quỳ, ông Long, ông Chu công, ông Thiệu công mà sao lại chịu ở trong dòng của thói tệ bạc ấy ? Hay là sự ủy nhiệm chưa xứng đáng ? Quy chế nơi cửa quan bồi thị khá nghiêm cẩn bởi lẽ pháp điển chính sự đã qua bàn bạc xác đáng, ủy nhiệm người phụ trách như thế thì không thể nói là không chuyên vậy. Ðiều cốt yếu là trong khi bàn bạc sở dĩ có ý kiến khác nhau, thực hiện được hay không thực hiện được, xuất phát ở chỗ vài ba vị đại thần lấy cái học "hòa mà không đồng" (của ng quân tử -ND) mà chưa có khả năng thúc đẩy công việc tiến tới. Giữ ý tứ không vì bè đảng mưu lợi riêng mà chưa thể bỏ cái riêng để thấy cái chung. Kẻ nào mà quên lợi ích của nước thì nhà cũng chẳng còn, không ai không nghĩ như thế. Khốn nỗi người ta vì sự tiêu pha cho mình mà bị che lấp thiện tâm liền bị chặn lại, ắt là đi đến chỗ khuyến khích sự sai trái. Hẳn họ thừa hiểu là phải cùng nhau giữ gìn quy tắc nhưng vì tư lợi làm mê loạn mà thay đổi tư tưởng. Ở chốn chính đường hội họp đông như cây rừng, khi trở về nhà riêng thì mỗi người lòng dạ đã khác, như thế thì giáo hóa làm cho nhân dân trong nước vâng theo triều đình thế nào được ? Trước mặt vua thì vâng vâng dạ dạ mà ý kiến thì đồng dị khác nhau, không ai dám thổ lộ hết mình, như thế sao có thể tham khảo, bàn bạc với các cấp tỉnh thành được ? Ngay những chính sách như lợi ích công cộng, kê khai sự thật cho dân biết, khen thưởng... còn chưa theo kịp các vị quan nhà Hán thì hy vọng gì có được phong khí thời nhà Chu ? Nay muốn những người tài giỏi cùng với triểu đình lo toan cho công việc đất nước ổn định, cần phải có phương hướng, khuyến khích, cổ vũ, việc đó trông chờ ở bề trên. Bởi lẽ đức tốt hợp làm một chung quanh Bệ hạ thì quần thần mới ra công bầy mưu tính kế, kể cả các vị quan có thái ấp mới đồng lòng ủng hộ cùng thu được công hiệu của việc săn sóc vỗ về dân chúng. Muốn các vị đại thần hòa đồng với nhau cũng cần phải gần gũi với họ, cùng chịu trách nhiệm. Có việc chính sự lớn thì vời họ đến cùng ngồi bàn bạc, không có sự khác biệt nhạt nhẽo hay nồng hậu trong ứng xử. Có việc mật cùng chụm lại cố vấn, không có chút gì tỏ ra thân sơ khác nhau. Cố gắng khuyến miễn sự đồng tâm, khuyến khích đồng tâm phụ chính, ra sức bảo vệ đất nước. Trong khi nói năng có sai sót nhỏ cũng nên khoan dung, nếu có nhiều ý kiến không phù hợp ắt nên có lời dụ thì những vị đại thần không thể không thực tâm cảm lòng tín nhiệm của quân phụ. Họ sẽ thi nhau, cổ vũ lẫn nhau, vì có chỗ để họ lập công danh sự nghiệp, như thế đội ngũ triều thần sẽ ăn ở đầy đặn, chu toàn, vui vẻ, thuận hòa trong chốn đài các với nhau, không còn sự hiềm khích vùi dập lẫn nhau. Thực tế, phong khí nhường nhịn, khiêm tốn nơi triều đường sẽ làm gương cho thiên hạ theo đó mà thành nếp hay, há không có đường lối khích lệ mà có được không ?

Lại bàn về "sự tinh tuý không pha tạp, trước sau như một không gián đoạn, cai quát muôn điềuthiện" thống nhất là một vậy. Trong Kinh Thư có nói "Hiệp sức để giành thắng lợi", lời nói ấy đầy đủ ba ý nghĩa, bỏ điều ấy thì lấy phương châm nào tốt hơn để trị nước ? Kẻ bề tôi cúi mong Hoàng đế Bệ hạ kiên trì theo phương châm đó, một mực thúc đẩy việc thi hành ; lấy lời cách ngôn của Ngu, Thuấn mà khắc vào chốn công môn ; lấy lời dậy của Y Doãn (51) niêm yết ở chỗ ngồi làm việc. Từ chốn thâm cung đến đại đình, vị trí dù khác nhau mà một mực không để gián đoạn. Cương lĩnh lớn đã giương cao, giềng mối nhỏ được thi hành. Dù có sự khác nhau trong quá trình thi hành mà sự vận dụng lời dậy vô cùng sinh động. Việc thi hành chính sự đã đạt kết quả thỏa đáng thì cái công hiệu của nó sẽ đến bất kỳ và sẽ thấy cảnh tượng của cải dồi dào, người người khoẻ mạnh. Bên trong thì có an ninh, bên ngoài yên ổn, thế nước mới luôn luôn thịnh. Những điều vừa nói trên sẽ mãi mãi rực r(o), tốt đẹp, nghiệp đế nghiệp vương, con con cháu cháu muôn đời thịnh vượng, xã tắc này ức vạn năm bền vững yên vui. Nghiên cứu kỹ về cái gốc, nguyên lý duy nhất phải chăng là ở đó ?

Thần cúi đọc chế sách rằng :"Sĩ quân tử vốn hoài bão đã lâu, nay được tới chốn công triều, có phương pháp nào để khuyến miễn, hãy viết thành bài, Trẫm sẽ tự lựa chọn để thi hành việc trị nước". Thần, một kẻ hàn vi, đội ơn được dậy bảo đã lâu, may có chút trình độ, kính vâng lời ôn tồn của Thánh thượng (cho) thần lấy danh nghĩa "sĩ quân tử", khen ngợi thần vốn có hoài bão, thần được tới chốn công triều, hỏi thần có phương pháp gì để khuyến miễn, Bệ hạ tự chọn lựa để giúp việc thi hành chính sự, trông đợi thần ở phần cuối bài có kế sách gì dâng hiến. Ôi, triều đình là cái đích tiêu chuẩn của bốn phương, lòng vua là gốc của muôn loài sinh hóa. Thời xưa sở dĩ thịnh trị là do cái Tâm ngay thẳng, nước mà không trị là do cái Tâm không ngay thẳng. Khi cái Tâm thông suốt thì quán triệt tới muôn loài sinh hóa. Một cái Tâm ngay thẳng thì các chính sách, chế độ sẽ ngay thẳng. Vạn sự vạn vật trong thiên hạ không có cái gì vượt ra ra khỏi cái Tâm đó. Càng mong muốn giữ được cái ý niệm đó trước khi sự việc phát sinh, xem xét nó từ những vụ việc quan trọng sẽ tới. Hiểu sâu sắc và gắng sức thi hành công việc chính sự để cái Tâm thêm mạnh mẽ, tham khảo ý kiến để cái Tâm thêm quảng đại. Thân cận với người tài giỏi, xa lánh bọn nịnh bợ để cái Tâm thuần khiết. Lấy sự chơi bời xa xỉ làm vui thì cái Tâm sẽ phóng đãng, Tâm phóng đãng thì công việc chính sự bỏ bê. Phải ngăn ngừa nghiêm mật từ tận đáy lòng mới ngăn chặn được sự tham dục. Sống trong sự điềm đạm tự nhiên đều là cái kế hay, làm trong sạch từ gốc đến ngọn, như thế có thể quán xuyến được cái Lý, có thể nghiên cứu được cái Số. Sự cơ do đó mà hòa được muôn người, nuôi dư(o)ng được muôn vật đều là suy ra từ cái Tâm đó, nhờ đó mà bước tới Chân Lý, tới sự công bằng cũng là sự rộng mở của cái Tâm đó. Ðời sống của nhân dân càng thêm phongtúc, quốc thể luôn cường thịnh là nền móng của sự an ninh, thịnh trị lâu dài. Niềm tin đó không gì lay chuyển được.

Thần chân thành dâng hiến, chẳng tự biết lời nói của mình sai sót, mong Hoàng thượng Bệ hạ lượng xét.
 
 

Nguyễn Tiến Ðoàn

sưu tầm, dịch và chú thích

Vũ Trung, 8/11/1995
CHÚ THÍCH (của Nguyễn Tiến Ðoàn và Nguyễn Thị Chân Quỳnh)
* Lê Quý Ðôn (1726-84), hiệu là Quế Ðường, người Thái bình. Thuở nhỏ nổi tiéng là thần đồng, 17 tuổi đỗ Hương nguyên, năm 1750 thi Hội, thi Ðình đều đỗ đầu với danh vị Bảng nhãn. Năm 1760 làm Phó sứ sang Trung quốc đã gửi về chúa Trịnh bản phúc trình đầu tiên bằng chữ Nôm. Làm quan đến chức Thượng thư và là tác giả nhiều sách biên khảo, văn thơ có giá trị (Kiến Văn Tiểu Lục, Vân Ðài Loại Ngữ, Ðạị Việt Thông Sử v.v...).

1- Giảm ngũ đăng tam : xem chú thích số 27 trong bài Sách vấn.

2- Ôn hậu : "ôn ngữ", ôn hòa mà nhân hậu, lời của vua (chú giải của Nguyễn Tiến Ðoàn).

3- Truyện : phần giảng giải lời dậy của Khổng Tử trong kinh sách gọi là Truyện. Cũng trỏ vào những bộ sử thời cổ Trung quốc như Tả Truyện, Công Dương Truyện.

4- Diêu mang : mập mờ, khó biết, khó tin.

5- "Nội thiên của Hoàng cực" : Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết, tức Thiệu Ung đời Tống, gồm 12 quyển, những quyển từ 1 đến 10 gọi là "Nội thiên". 6 quyển đầu lấy 64 quẻ trong Kinh Dịch phối hợp với "Nguyên hội vận thế", từ Ðế Nghiêu đến Hậu Chu, suy ra vết tích, nguyên nhân của sự trị loạn. Lê Quý Ðôn muốn nói đến nguyên nhân trị loạn trong "Nội thiên". (Chú giải của Nguyễn Tiến Ðoàn)

6- : Lý Thái cực. Xem chú thích số 2 trong bài Sách vấn.

7- Lợn cỏ : lợn lòi, lợn rừng (Nguyễn Tiến Ðoàn).

8- Thất tình : vui, buồn, giận, ghét, thương, muốn, sợ (Phật giáo).

9- Xử kỷ tiếp vật : Lòng người đối với vật cũng có khinh trọng khác nhau.

Thánh nhân sai khiến sự vật hợp với lý tự nhiên. Trên dưới một lòng, mỗi người một việc, đúng vị trí, trách nhiệm, theo đạo quy củ của Trung Dung - Ðại Học.

10- Trần Thiệp : xem chú thích số 4 trong bài Sách vấn.

Thái sử công xem chú thích số 5 bài Sách vấn.

11- Tống Hình là thuyết khách, nói với Mạnh Tử :"Tôi nghe vua Tần và vua Sở sắp đánh nhau, định đến yết kiến vua Sở khuyên bãi binh, nếu vua Sở không nghe sẽ đến gập vua Tần, trong hai vua ấy tất có một người nghe theo tôi, tôi sẽ giảng là chiến tranh bất lợi cho cả hai nước". Mạnh Tử nói :"Nếu tiên sinh đem việc lợi mà nói, hai vua ấy đẹp lòng vì chỗ lợi bèn bãi binh (...) Họ hi vọng nơi món lợi vậy. Như thế cha con, vua tôi , anh em rốt cuộc giao tiếp nhau chẳng qua vì lòng tham lợi mà thôi (Nếu họ chẳng được lợi sẽ oán hận nhau, vô số tội ác liền phát sinh). Nước nhà như thế mà chẳng diệt vong thì chưa từng có vậy". (Mạnh Tử, 185-7)

12- Hợp tung : thuyết liên kết các nước từ Bắc xuống Nam, của Tô Tần, để chống nhà Tần.

Liên hoành : thuyết liên kết các nước từ Ðông sang Tây, của Trương Nghi, để tôn thờ nhà Tần, chống lại thuyết "Hợp tung" của Tô Tần.

13- Lê Quý Ðôn rất khôn khéo và tế nhị. Tại sao "không tiện trần thuật" ? Bởi lẽ vua Lê lúc ấy bị chúa Trịnh lấn lướt, gần như bù nhìn (chú thích của Nguyễn Tiến Ðoàn).

14- Thoán từ : xem chú thích số 6 bài Sách vấn.

15- Tượng : hình tự dựa theo hình của sự vật mà viết / vẽ thành chữ.

16- Sách Hồng Phạm : cái "dụng của học thuyết Ngũ hành.

Cơ Tử nói :"Tôi nghe đời xưa chúa Cổn lấp hồng thủy làm lộn xộn ngũ hành, Thượng đế nổi giận, Cổn bị đầy mà chết. Vua Vũ nối dấy, Trời bèn cho 9 loại của khuôn phép lớn. Ðạo Hằng (để trị nước), được sắp đặt, đứng đầu là Ngũ hành : Thủy gọi là Thấm xuống, Hỏa gọi là Bốc lên, Mộc gọi là Vẹo ngay, Kim gọi là Theo đổi, Thổ là để Gieo cấy. Thấm xuống làm nên mặn, Bốc lên làm nên đắng, Vẹo ngay làm nên chua, Theo đổi làm nên cay, Gieo cấy làm nên ngọt (Thượng Thư, tr. 109-110).

17- Số 50 : "Hỏa phong đỉnh" - Làm việc cho đời, Ðức mỏng mà ở ngôi tôn thì bị vạ. (Kinh Dịch, XIV)

18- "Nhà Hạ Kiến Dần..." : Nhà Chu lấy Kiến Tý (tháng Tý = tháng 11) làm tháng giêng ;

nhà Thương lấy Kiến Sửu (tháng Sửu = tháng 12) làm tháng giêng ;

nhà Hạ lấy Kiến Dần (tháng Dần = tháng 1) làm tháng giêng.

19- "Khoảng năm Kiến-hưng đồi Hậu Hán, Ngụy Tào tự thay đổi chính sach, lấy Sửu làm lịch Kiến Tý nhà Chu làm tháng giêng" câu này nghĩa không minh bạch, không rõ có phải vì sao chép sai lầm ?

20- Tiểu khang : Xã hội lý tưởng của Khổng Tử là xã hội phong kiến theo điển chế nhà Chu, có tôn ti trật tự, lấy gia đình làm gốc, từ vua quan đến dân sống hòa hảo với nhau, ai có phận nấy, có quyền lợi và nhiệm vụ. (Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, 198-9)

21- Ðại đồng : Thiên hạ là của chung, tăng gia sản xuất cùng làm cùng hưởng. Kén người có đức lãnh đạo chứ không dùng người thân, nuôi dư(o)ng người cô quả, bệnh tật. Sống chung với nhau đầy tín nghĩa, thân ái, hòa thuận. Trộm cướp tự nhiên tiêu diệt.

Ngũ đế : Hoàng Ðế, Xuyên Húc (cháu nội Hoàng Ðế), Ðế Cốc, Nghiêu, Thuấn.

22- Lễ Xạ : lễ nghi về phép bắn cung. Người bắn tiến hay lùi đều phải trúng lễ, bên trong thì trí phải nghiêm chính, bên ngoài thân thể phải thẳng thắn mới mong bắn trúng. Phép bắn phải ngay thẳng như tâm để thấy đức hạnh của người bắn cung.

Xem chú thích số 9 bài Sách vấn.

23- Tô Ðông Pha (1037-1101) : tên là Tô Thức, hiệu Ðông Pha, một trong "Ðường Tống Bát Ðại gia", con cả của Tô Tuân. Ðỗ Tiến sĩ năm 1057 (cùng một khoa với em là Tô Triệt). Nổi tiếng thơ hay, nhất là bài "Tiền Xích Bích phú". Bài văn thi Tiến sĩ "Hình thưởng trung hậu chi chí luận" rất được chủ khảo khen ngợi nhưng không cho đỗ đầu vì ngờ là của Tăng Củng (xem Phụ lục I).

24- Quản Di Ngô : tức Quản Trọng, một chính trị gia có tài, giúp Tề Hoàn Công làm nên nghiệp Bá.

Bão Thúc Nha là bạn tri kỷ của Quản Di Ngô, là người quân tử nhưng quá yêu người thiện, ghét kẻ ác, không dung được người nên không giỏi chính trị bằng Quản Di Ngô.

25- Tô Tần, người xướng ra thuyết "Hợp tung" (xem chú thích 12 ở trên).

26- Thương Ưởng : Tể tướng nhà Tần, xem chú thích số 10 bài Sách vấn.

27- Hàn Phi : Xem chú thích số 11 bài Sách vấn.

28- Ðạo của Ðại học : Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trước hết sửa mình thành người tốt để làm gương, rồi mới sửa người, sửa tâm tính, phong tục để đi đến chỗ thiên hạ thái bình.

29- Tề vật luận : xem chú thích số 12 bài Sách vấn.

30- Ðằng văn Công : Văn Công nước Ðằng hỏi Mạnh Tử :"Nước Ðằng nhỏ mà ở giữa hai nước lớn Tề và Sở, phải chiều cả hai nhưng không đủ sức thì làm thế nào ?". Mạnh Tử đáp :"Có chí tự cường, tự giữ nước, đào hào đắp lũy, kết lòng dân, thương yêu giáo hóa dân, cả nước một lòng là sức mạnh vô hình".

Hứa Hành là học giả đời Nguyên, phái Lý Học. Phép cai trị của Hứa Hành : Cần dùng người và lập pháp. Kẻ ở trên thì yên, dưới thì thuận ; cấp bổng lộc cho quan để dư(o)ng liêm ; ở ngoài đặt các chức Giám tư xét việc ô lạm, ở trong thì bộ Lại định cái tư cách lý lịch người làm quan thì sự cầu cạnh phi phận có thể bớt. Ðạo làm vua khó ở những chỗ : cách thi hành lời nói, phòng bị những điều dối trá, dùng người hiền, giáo dân, thận vi (hành vi thận trọng).

31- Lã thị : Lã Vọng, tức Khương Tử Nha.

32- Tần thệ : Xem chủ giải số 15 bài Sách vấn.

33- Bình chương : Tể tướng.

34- Tam giám : Quản thúc, Sái thúc và Hoắc thúc có trách nhiệm giám sát Vũ Canh (con vua Trụ) đã làm phản nhà Chu.

35- Thành Chu chuyển dời đô ấp : Văn Vương ở đất Phong, Vũ Vương ở đất Cảo, Chu Thành Vương ở Lạc ấp. Vũ Vương giết vua Trụ, cho con vua Trụ là Vũ Canh làm chúa đất nhà Ân. Vũ Canh làm phản, bị giết, đất nhà Ân đem nhập vào đất nhà Chu, bọn quan lại nhà Ân chắc là phản kháng nên bị dời sang Lạc dương ở xen lẫn với dân nhà Chu. (Thượng Thư, 120-3)

36- Ðầu ngao : Ngao là một loài vật trong thần thoại Trung quốc : Trời được dựng trên bốn đầu ngao, ý nói là những cột trụ quan trọng. (Nguyễn Tiến Ðoàn)

37- Tứ duy là bốn giềng mối. Truyền thuyết cho rằng bầu trời được hình thành là do các đầu ngao đã vững vàng. Ý nói triều đình mạnh phải nhờ các hiền tài, các đầu ngao. Các đầu ngao vững thì bốn giềng mối, quan lại cấp dưới, dân chúng, mới bền chắc được (chú giải của Nguyễn Tiến Ðoàn).

38- Tứ di : bốn rợ. Người Trung Hoa tự coi chỉ có Trung quốc là văn minh, những nước chung quanh đều man di mọi rợ. Các xứ phía đông gọi là Di, các xứ phía tây gọi là Nhung, các xứ phía nam gọi là Man, các xứ phía bắc gọi là Dịch. (TvG, Khai Trí Tiến Ðức, 44)

39- Công bằng của Hoàng cực : vô tư, trung chính, quân bình. Xem chú thích số 19 bài Sách vấn.

40- Phạm Trọng Yêm (989-1052) Tiến sĩ đời Tống, ngay thẳng, cương nghị, nhân từ, được triều đình trọng dụng. Lập chí :"Kẻ sĩ phu phải lo trước việc thiên hạ lo, vui sau cái vui của thiên hạ".

41- Vua Vũ Thang tức vua Hạ Vũ hay Ðại Vũ (2205-1786/67), con ông Cổn (không nên nhầm với vua Thành Thang (1766-1753) lập ra nhà Thương, sau gọi là nhà Ân), ở ngôi 13 năm, là người giết vua Kiệt nhà Hạ.

Vũ Vương (1134-1116) nhà Chu, giết vua Trụ nhà Ân.

42- Tam phong, thập khiên : Theo Kinh Thư "Tam phong" làVu phong (luôn luôn tổ chức múa hát trong cung thất), Dâm phong (luôn luôn say mê tiền của, sắc đẹp), Loạn phong (dám khinh nhờn lời dậy của vua, làm trái sự trung thănh, ngay thẳng, xa lánh những bậc đạo cao, đức trọng, chẳng khác đứa trẻ ngoan cố, mất dậy).

"Thập khiên" : Khiên là tội lỗi, "thập khiên" là : 1) tiền của, 2) ca, 3) múa, 4) gái đẹp, 5) chơi bời, 6) săn bắn, 7) khinh nhờn lời vua, 8) làm trái sự trung thành, ngay thẳng, 9) xa lánh những bậc đạo cao đức trọng, 10) hành động như đứa trẻ mất dậy. (Nguyễn Tiến Ðoàn)

43- "8 phép tắc, 6 mưu kế " - Chú giải của Nguyễn Tiến Ðoàn :

"8 phép tắc" : Theo Chu Lễ thì 8 phép tắc là 8 biện pháp để trị các quan trong nội phủ : 1) quan thuộc lấy việc tiến cử người tài làm cho nước thịnh trị ; 2) quan chức lấy hành động làm cho nước thịnh trị ; 3) quan liên hiểu biết cách quản lý các quan trong và ngoài ; 4) quan thường là biết nghe ý kiến các quan ; 5) quan thành lấy sự kinh bang, biết tổ chức công việc cho dân chúng làm cho nước thịnh trị ; 6) quan pháp biết uốn nắn cho ngay thẳng mọi việc ; 7) quan hình trị nước bằng sự cố kết toàn dân ; 8) quan kế biết trị những tệ nạn, khó khăn, làm cho nước vững mạnh.

"6 mưu kế" : Khảo sát quan lại gọi là "kế". Chu Lễ viết :"Việc nghe các quan trong nội phủ có 6 khảo sát : 1) làm quan phải thanh liêm và lương thiện ; 2) phải thanh liêm và năng động ; 3) phải thanh liêm và kính cẩn ; 4) phải thanh liêm và chân chính ; 5) phải thanh liêm và có pháp độ ; 6) phải thanh liêm và biết cách tổ chức".

44- "Nhạn hồng kêu ơn" - Nguyễn Tiến Ðoàn :"Hồng nhạn" tên một thiên "Tiểu nhã" trong Kinh Thi khen vua Chu Tuyên Vương có tài tập hợp dân ly tán. Lê Quý Ðôn dùng hình ảnh "hồng nhạn" để chỉ quan quân phủ chúa Trịnh phụ trách việc đánh dẹp, chiêu hồi dân ly tán.

"kêu ơn" : Quan quân phủ Chúa kể công trạng với vua Lê Hiển Tông và cầu vua "ban ơn".

45- Vua Cao tông (Thang) cư tang ba năm vẫn không chịu nói, bề tôi can thì vua kể đã chiêm bao thấy Thượng đế cho một người giúp việc tốt, người này sẽ nói thay vua. Sau đó sai vẽ tranh tìm người ấy khắp nơi, thấy Phó Duyệt giống hệt người trong mộng bèn lập làm tướng để sớm hôm giúp trị nước. (Thương Thư, 86-7)

Ông Chu tức Chu Công Ðán. Xem chú giải số 8 & 10 bài văn sách của TN Nguyễn Trực.

46- Lương nhục, dược thạch thịt gỗ, thuốc đá. Xem chú thích số 22 bài Sách vấn.

47- Trịnh Tử Sản trước khi chết dặn con là Tử Thái Thúc :"Sau khi ta chết chắc ngươi sẽ thay ta làm tướng nước Trịnh. Người có Ðức mới lấy đạo "khoan" mà phục được dân, người thường thì phải lấy sách "nghiêm" mà trị dân. Lửa nóng thì dân sợ, song người chết vì lửa thì ít, còn nước mát, dân khinh lờn, cho nên người chết vì nước thì nhiều". Tử Thái Thúc lên cầm quyền không n(o) dùng "nghiêm", lấy đạo "khoan" trị dân, chẳng bao lâu dân sinh trộm cướp, phải đánh dẹp, bấy giờ mới than nếu sớm biết nghe lời cha thì đâu đến nỗĩ.

48- Nhà Ngu, Chu tức nhà Ðường của vua Thuấn và nhà Chu của Văn Vương.

Ông Quỳ : tức Hậu Quỳ, hiền thần của vua Thuấn, giữ chức Trật tông, dậy lễ nhạc, khoan hòa, nghiêm thẳng, không kiêu.

Ông Long : hiền thần của vua Thuấn, giữ chức Nạp ngôn, xét các lời bàn ra tâu vào, các việc tấu đối (Thượng Thư, 26 - 29).

49- Chu Thái Bảo tức Thiệu Công Thích, con Văn Vương, em Vũ Vương, giữ chức Thái Bảo, ban bố chính lệnh nhà Chu ở phương Nam trong khi Chu Công Ðán coi việc nội trị.

50- "Anh cả thổi sáo..." : xem chú thích số 24 bài Sách vấn.

51- Y Doãn dậy vua Thái Giáp, con Thành Thang. Xem chú thích số 22 bài văn sách của TN Nguyễn Trực.